Tháng ba bà già đi biển, nhưng trời biển Côn Đảo mùa này lại lộng gió cấp 6 cấp 7, như để chúng tôi, những người con từ cao nguyên Lâm Đồng hiểu thêm về những gian khổ, nhọc nhằn của bao người khi bị đày đến Côn Lôn trên những chuyến hải trình định mệnh trong suốt hơn 1 thế kỷ lưu đày những chiến sỹ cách mạng VN.
Nhà tù Côn Đảo. Ảnh Internet |
Tháng ba bà già đi biển, nhưng trời biển Côn Đảo mùa này lại lộng gió cấp 6 cấp 7, như để chúng tôi, những người con từ cao nguyên Lâm Đồng hiểu thêm về những gian khổ, nhọc nhằn của bao người khi bị đày đến Côn Lôn trên những chuyến hải trình định mệnh trong suốt hơn 1 thế kỷ lưu đày những chiến sỹ cách mạng VN.
Sử Việt trước thế kỷ XX thường gọi đảo Côn Sơn là đảo Côn Lôn. Tên gọi cũ trong các văn bản tiếng Anh và tiếng Pháp là Poulo Condor. Ngày 28/11/1861, Pháp chiếm đảo, sau đó 2 tháng Thống đốc Bonard ở Nam Kỳ ban hành nghị định thành lập khu giam cầm tại Côn Đảo, lập tức ở vị trí đó họ đã cho xây dựng lên một nhà ngục tạm thời bằng vách đất mái tranh và 50 tù nhân đầu tiên có mức án từ 1 đến 10 năm tù bị đưa ra Côn Đảo giam tại đây vào đầu tháng 3 năm 1862. Sau đó 3 tháng vào đêm 28/6/1862 năm mươi tù nhân này đã kết hợp với hơn một trăm quan lính triều Nguyễn làm cuộc khởi nghĩa nổi dậy đốt phá trại giam, đánh đuổi khoảng một chục tên cai ngục Pháp xuống một chiếc thuyền nhỏ về nước. Nhưng sau cuộc khởi nghĩa số nghĩa binh này không tìm được phương tiện về đất liền nên hai tuần lễ sau Thực dân Pháp đã phái một thông hạm tên Nozazaray đến Côn Đảo tàn sát số nghĩa binh, họ giết chết hơn 100 người và bắt sống 20 tù nhân. Họ buộc 20 tù nhân này phải mang hơn 100 xác chết lên trên một đồi cát chôn chung một mồ sau đó chốn sống luôn 20 tù nhân đó (nay là Di Tích Bãi Sọ Người) Sau đó thực dân Pháp cho xây dựng một nhà ngục kiên cố với tổng diện tích là 12.015m2 có tường dày bao bọc bên ngoài. Kể từ đó Địa ngục Côn Lôn chính thức hình thành.
Nghĩa trang Hàng Dương là nơi đoàn chúng tôi đến đầu tiên khi đặt chân lên Côn Đảo trong một buổi sáng thấm đẫm gió mưa. Nghĩa trang Hàng dương rộng khoảng 20ha, trong 113 năm tồn tại của địa ngục, đã có trên 20 ngàn người bị vùi xác nơi đây, phần mộ ở đây đa phần là những mộ vô danh. Gió thổi, mưa trôi thấy xương nổi lên người ta xây thành mộ, không ai dám bới lên xem dưới đó có mấy lớp xương người, nên đã có câu:
“ Đất Côn Lôn che dưới lớp xương người
Không bia mộ, không tên không tuổi”.
Trên bia mộ của mỗi người tù vô danh chỉ duy nhất một ngôi sao đỏ . Các ngôi mộ quay về các hướng khác nhau theo như vị trí khi bị vùi lấp nhưng các bát nhang vẫn đầy chân hương, các anh không lạnh lẽo nơi này.Những gốc dương già che chở các phần mộ và thiên nhiên tĩnh mịch ru các anh trong cõi vĩnh hằng..
Ngôi mộ được nhiều người đến viếng và đặt hoa nhất là mộ chị Võ Thị Sáu. Chị Sáu quê ở Đất đỏ Bà Rịa - Vũng Tàu sinh năm 1933. Chị hoạt động trong đội quân biệt động bị địch bắt lúc mới 17 tuổi, là lứa tuổi vị thành niên nên chúng không xử bắn được, chúng giam chị vào khám lớn Chí Hoà. Mùa Thu năm 1952 chúng đem chị ra Côn Đảo, đưa vào trại biệt giam và sáng ngày hôm sau đem ra trường bắn. Chị đã ra đi khi tuổi đời mới tròn 19, cái tuổi đẹp đẽ nhất của đời người con gái. Chị sống mãi vì dân tộc với lứa tuổi thanh xuân trong trắng của mình và muôn năm được nhân dân gọi là chị. Nhưng dân đảo tôn thờ họ gọi chị là cô Sáu linh thiêng… Mỗi một nắm đất của nghĩa trang Hàng Dương là dấu tích của bao sự kiện đấu tranh của các chiến sĩ cách mạng, lớp trước ngã xuống lớp sau đứng lên tiếp bước:
Có đến nơi này, và tận mắt chứng kiến sự dã man của thực dân đế quốc đối với những chiến sỹ cách mạng, chúng tôi mới thấy hết được sự tàn bạo của ngục tù Côn Đảo, một Địa ngục tại trần gian – một địa ngục với nhiều tầng địa ngục: 127 phòng giam, 44 xà lim, 504 phòng “Biệt lập chuồng cọp”. Trong chốn lao tù Côn Đảo, người tù không chỉ mất tự do. Họ còn chịu khổ sai, nhục hình, đói khát và bệnh tật hành hạ ngày này qua ngày khác. Mỗi nhà lao Côn Đảo là một tầng địa ngục. Các kiểu khủng bố hành hạ thời trung cổ được kết hợp với những kiểu tra tấn, đàn áp vận dụng các “thành tựu khoa học kỹ thuật” hiện đại tinh vi để đánh lên mọi giác quan của con người. Trải qua 113 năm (1862-1975), Côn Đảo là chiến trường đặc biệt của cuộc đấu tranh sống còn giữa những người yêu nước và cách mạng Việt Nam với kẻ thù, trước hết là thực dân Pháp và tay sai Nam triều, tiếp đó là đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Xà lim Chuồng Cọp hẳn là tầng địa ngục tận cùng trên thế gian. Lại có Hầm Phân Bò, nơi có hệ thống cống ngầm đưa phân từ chuồng nuôi bò sang để ngâm người tù xuống đó mà tra tấn, hành hạ bí mật. Giáo sư sử học Trần Văn Giàu, cũng từng là tù nhân Côn Đảo, nhận xét: “Nói ra thì có lẽ không phải, nhưng cái chết bằng hơi độc, thuốc độc, điện giật, giết một lần hàng vạn sinh linh, cái chết đó người chiến sĩ tù nhân Việt Nam mình có mấy ai sợ đâu? So với cái tàn ác ở nhà tù Côn Đảo dưới chế độ thực dân đế quốc, thì nhà tù Hitler giống như ao cạn so với vực thẳm”.
Một lần đến với Côn Đảo, chúng tôi hiểu thêm rất nhiều về giá trị của độc lập tự do được đổi bằng máu xương của bao thế hệ chiến sỹ cách mạng, của bao lớp cha anh đi trước. Một lần về Côn Đảo để nhận thức rõ hơn về một hòn đảo anh hùng, một di tích lịch sử vĩ đại, Côn Đảo mãi là một trường học lớn cho các thế hệ mai sau. Hôm qua, hôm nay và mai sau, các thế hệ con, cháu Việt Nam sẽ tiếp tục về với vùng đất thiêng liêng này để ghi nhớ và khắc sâu truyền thống kiên cường bất khuất của các anh hùng, chiến sỹ cách mạng và đồng bào yêu nước trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc…