Đi tìm báu vật của vua Hàm Nghi

03:10, 02/10/2013

Có lẽ trên thế giới này không ở đâu có một bảo tàng kỳ lạ giữ gìn và bảo vệ báu vật của vị vua yêu nước bằng lòng dân hơn 100 năm nay ở một ngôi làng hẻo lánh miền núi ở huyện Hương Khê - Hà Tĩnh trong những ngôi nhà vách gỗ lợp ngói đơn sơ, với bao câu chuyện ngỡ như huyền thoại. Chúng tôi đã tìm về thôn Phú Hòa, xã Phú Gia - nơi lưu giữ báu vật có một không hai của vua Hàm Nghi ban tặng.

Có lẽ trên thế giới này không ở đâu có một bảo tàng kỳ lạ giữ gìn và bảo vệ báu vật của vị vua yêu nước bằng lòng dân hơn 100 năm nay ở một ngôi làng hẻo lánh miền núi ở huyện Hương Khê - Hà Tĩnh trong những ngôi nhà vách gỗ lợp ngói đơn sơ, với bao câu chuyện ngỡ như huyền thoại. Chúng tôi đã tìm về thôn Phú Hòa, xã Phú Gia - nơi lưu giữ báu vật có một không hai của vua Hàm Nghi ban tặng.

Tác giả và cố đạo nơi giữ báu vật vua Hàm Nghi
Tác giả và cố đạo nơi giữ báu vật vua Hàm Nghi


I. Chân dung vị vua yêu nước

Vua Hàm Nghi có tên là Ứng Lịch. Ông sinh năm 1871 tại Huế và mất năm 1944 tại Alger vì bệnh ung thư dạ dày. Ông là em ruột vua Kiến Phúc và Đồng Khánh (em cùng cha khác mẹ). Hàm Nghi là vị vua Hoàng đế chống lại thỏa ước Pa-te-nốt (1884) do thực dân Pháp ép buộc triều đình Huế ký kết lên làm vua đúng một năm thì phát động cuộc kháng chiến chống Pháp mở đầu bằng trận tập kích đánh đồn Mang Cá và tòa Khâm Sứ Trung Kỳ đêm 25 tháng 5 năm Ất Dậu (tức là mồng 5 tháng 7 năm 1885). Trận tập kích thất bại, Hàm Nghi và các cận thần xuất quân ra Sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị) xuống chiếu Cần vương lần thứ nhất. Tháng 9 năm 1885, đức vua di giá ra Sơn phòng Phú Gia tây nam huyện Hương Khê (Hà Tĩnh) đặt đại bản doanh ở thôn Phú Hòa. Tại đây, vua hạ chiếu Cần vương lần thứ hai, nhận lễ bái mạng của các thân sĩ Hà Tĩnh lên bái yết gồm Phan Đình Phùng, Phan Trọng Mưu, Lê Ninh… Đức vua tấn phong Đình nguyên Phan Đình Phùng làm Tán Lý Quân Vũ thống lĩnh các đạo nghĩa binh. Ba năm sau, khi rời căn cứ Sơn phòng Phú Gia nhà vua bị tên Trương Quang Ngọc (người cầm đầu đội quân bảo vệ vua Hàm Nghi) phản bội, bắt nộp cho Pháp để lĩnh thưởng trong đêm 26 tháng 9 năm Mậu Tý (1888) ở rừng núi huyện Tuyên Hóa (Quảng Bình). Sau đó là những năm tháng nhà vua bị lưu đày ở nơi cách xa tổ quốc nửa vòng trái đất. Ngày 28 tháng 11 năm 1888, tàu thủy chở vua Hàm Nghi từ cửa Thuận An (Huế) đến Sài Gòn, sau đó bọn thực dân Pháp đưa nhà vua xuống tàu “Biên Hòa” bắt đầu cuộc đời lưu lạc cập bến cảng Alger thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi. Phục dịch trong biệt thự nhà vua có một thị vệ người Việt triều đình Đồng Khánh cử sang, bọn Pháp còn cử một phụ nữ người Pháp luống tuổi làm quản gia kiêm luôn việc kiểm soát cựu Hoàng. Gần một năm đầu cựu Hoàng không chịu học tiếng Pháp, cho rằng tiếng Pháp là thứ tiếng của những kẻ đã sang cướp nước Việt Nam nên không cần học làm gì. Mọi sự giao tiếp của quan chức địa phương và người Pháp đều thông qua người thông ngôn là ông Trần Bình Thanh. Nhưng dần dần cựu Hoàng nhận thấy người Pháp của Alger không phải là người Pháp thực dân ở xứ An Nam, không những họ không thù hận mà trái lại còn quý trọng, quý mến và giúp đỡ Ngài. Sau có cựu Hoàng mới chịu học tiếng Pháp, nói và viết tiếng Pháp như một trí thức người Pháp. Trừ những buổi đi săn với bạn bè phải bận âu phục để cưỡi ngựa cho gọn, cựu Hoàng luôn mặc áo dài đen, bịt khăn đen với tóc búi tó trên đầu. Tại biệt thự cựu Hoàng luôn nói tiếng Việt, ăn cơm Việt do người bên nước sang nấu nướng. Tại đây cựu Hoàng tổ chức thờ cúng tổ tiên dòng họ Nguyễn Phước đúng theo nghi lễ cổ truyền. Ở đây cựu Hoàng có ba người con, giáo dục nuôi dạy các con thành đạt.

Ở Phú Gia (Hương Khê) hiện nay có thành Sơn phòng của vua Hàm Nghi nằm trong quần thể di tích lịch sử - văn hóa, năm 2008 được phê duyệt dự án trùng tu xây dựng tôn tạo với tổng kinh phí hơn 21 tỷ đồng. Thành Sơn Phòng là một công trình quân sự độc đáo, là đất địa linh nhân kiệt, nơi vị vua trẻ Hàm Nghi chọn làm đại bản doanh chống thực dân Pháp. Tại đây nhà vua được lãnh binh Hà Tĩnh là Phan Mỹ, Lê Ninh đưa 500 quân đến giúp bảo vệ. Nhà vua ban chiếu Cần vương lần thứ 2 tố cáo mưu đồ xâm lược của thực dân Pháp, vạch trần bộ mặt phản động của bọn gian thần như Nguyễn Văn Tường… Đồng thời nhà vua kêu gọi nhân dân chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc đã dấy lên phong trào kháng Pháp sôi nổi rộng khắp. Thành Sơn Phòng xây theo hướng Nam, 4 cạnh thành được xây bốn cửa có 4 ụ đất đặt súng thần công với diện tích gần 44.000m2. Thành hình chữ nhật được đắp cao 2,2-2,7m, chân thành rộng 9m, mặt thành rộng 7m, mặt ngoài dường như dốc đứng rất khó leo lên được. Ngược lại mặt phía trong những vị trí trọng yếu có thể lên xuống dễ dàng. Phía ngoài thân thành cách 5m là hào nước để ngăn cản quân địch bao lấy thành: rộng 5,5m, sâu 1,7m. Hào là đường giao thông thủy nối liền với các khu vực trong thành và cũng là con đường thoát ra sông Tiêm để vào rừng khi có nguy hiểm. Trong thành có điện cho vua Hàm Nghi và các đại thần như Tôn Thất Thuyết ở, có hồ voi tắm. Ngày nay thành Sơn Phòng được tu bổ lại trong một khuôn viên gọn gàng, xinh xắn. Trước cửa điện thờ vua Hàm Nghi có hai con voi trắng đúc bằng bê tông rất đẹp. Trên bàn thờ có di ảnh của vua Hàm Nghi thời trẻ với khuôn mặt khôi ngô, đầu chít khăn, ảnh nhìn nghiêng nhưng thần sắc vẫn lẫm liệt, oai phong toát ra thật sang trọng, tự tin và quyết đoán. Di ảnh của vua Hàm Nghi vừa mang thần thái oai phong của vị võ tướng mà tinh thần nhân bản lại rất văn nhân, ung dung Á đông hiền triết.

II. Báu vật của vua Hàm Nghi

Khi đi tìm báu vật của vua Hàm Nghi, ngoài việc tìm hiểu về cuộc đời của vị vua yêu nước và căn cứ địa thành Sơn Phòng, chúng tôi rất quan tâm đến xã Phú Gia, địa phương cất giữ báu vật quí. Phú Gia tiếp giáp dãy núi Giăng Màn, có thác Vũ Môn thắng cảnh đẹp với sự tích “Cá Chép vượt Vũ Môn” nổi tiếng sát biên giới Việt - Lào. Đặc biệt, ở đây có đền Trầm Lâm, nơi có giếng Trăm Năm. Ngoài ra còn có đền Công Đồng và đền Trại Trụ (còn gọi là đền Ngàn Trụ). Đền Trầm Lâm là ngôi đền thiêng, có liên quan đến sử tích báu vật của vua Hàm Nghi. Theo truyền ngôn của nhân dân vùng Ấu Sơn thì vào thế kỷ 14, khi triều đại phong kiến nhà Trần đổ nát, triều Hồ lên thay. Mượn tiếng phù Trần diệt Hồ, giặc Minh ồ ạt đưa quân sang xâm lược nước ta, đánh vào kinh thành Thăng Long, vào Tây đô Thanh Hóa. Phía Nam bọn giặc chiếm thành, lấn tới quấy nhiễu, hà hiếp người dân, cảnh điêu tàn đói rách, nạn chạy giặc của nhân dân vô cùng bi thảm. Để cứu lấy nhân dân, xuất hiện một nàng tiên nữ ra tay độ thế, đó chính là đức Thánh Mẫu, bà đã giúp mọi người thoát khỏi bọn giặc.

Theo sách Lễ chí nhà Minh có chép: Đền Trầm Lâm cũng là một trong những 6 ngọn nước có tiếng ở An Nam. Năm Hồng Vũ thứ 3 (1370) vua Thái Tổ nhà Minh đã sai sứ sang tế. Sách “Địa dư tỉnh Hà Tĩnh” của Trần Kinh chép cụ thể: “Về làng Phú Gia có một khoảnh rừng cây cối um tùm, giữa có cái hồ bơi tròn rộng chừng 4 sào. Tục truyền hồ không đáy, nước trong hồ một năm có 4 mùa, thay đổi bốn màu sắc: Mùa xuân nước xanh, mùa hạ nước hồng, mùa thu nước trắng, mùa đông nước đen”. Các nhà ngoại cảm xác định nơi đây là long mạch của đất nước. Tương truyền kể rằng đêm 20 tháng 9 năm 1885, trời không trăng, không sao, vua Hàm Nghi nằm ngủ tại thành Sơn Phòng thì mộng thấy một phụ nữ mặc áo đào đến bảo: “Trẫm hãy rời khỏi nơi này, bọn “bạch quỷ” (tức giặc Pháp) đang vây bắt trẫm, cần phải định liệu”. Tỉnh dậy vua Hàm Nghi hỏi ở đây có đền thờ nữ thần nào không, nhân dân cho biết cách đây không xa có đền Trầm Lâm thờ một nữ thần, đến nay nổi tiếng linh thiêng được nhân dân tôn thờ. Nhà vua mời gọi các cận thần lại thông báo giấc mộng và giao cho Tôn Thất Thuyết chuẩn bị sắc phong cùng các lễ vật tạ lễ ở đền Trầm Lâm. Ngày 25 tháng 9 năm 1885 vua ban sắc phong cho nữ thần tại đền Trầm Lâm chức “thượng thượng đặng tối linh thần” kèm theo những phẩm vật quí giá như vi bố (màn bằng gấm có gắn 35 lục lạc bằng đồng dùng cho vua), áo mũ triều thần 8 bộ, cờ lộng, tàn quạt 20 chiếc, 2 con voi bằng vàng, 1 con voi bằng đồng, 2 bảo kiếm lưỡi bằng sắt cán bằng gỗ chạm hình rồng phượng sơn son thiếp vàng.

Theo như lời của những vị cao niên của làng Phú Hòa thì những vật báu này đã được gìn giữ trong làng gần 130 năm. Điều đặc biệt là người dân bảo tồn vật báu bằng cách chuyền tay nhau. Lễ làng quy định nếu không có gì thay đổi thì 2 năm 1 lần làng sẽ làm lễ chọn cố đạo mới giữ cổ vật. Công việc yêu cầu tuyển “nhân sự” cũng khá khắt khe: Cố đạo phải là người làng liêm khiết, cẩn thận, con cháu hiếu thảo và vợ… còn sống (!). Người giữ chức cố đạo không chỉ nhận được sự tín nhiệm của dân làng mà phải được sự “chấp thuận” từ các vị thần linh. Để chọn được một cố đạo, làng chọn ra ba cụ xứng đáng nhất. Khi đã có “ứng cử viên” làng tổ chức sắm lễ bao gồm: hương, hoa, quả, phẩm, trà, tửu để làm lễ hạ nguyên (hạ keo). Sau ba lần xin quẻ cho mỗi ứng viên, ai được sự đồng thuận nhất của thần linh thì làm cố đạo (đạo chủ), lúc đó các báu vật và bàn thờ vua Hàm Nghi sẽ được chuyển về nhà cố đạo mới. Nếu thánh thần đã “ứng chứng” nhưng chưa “ứng chức” thì cố đạo cũ tiếp tục công việc. Chính vì tính nghiêm trang và sự tuyển chọn khá nghiêm ngặt về luật lệ và tâm linh mà ai được bầu làm cố đạo đều được làng tôn vinh và quý trọng như già làng ở Tây Nguyên vậy.

Chúng tôi tìm đến nhà cố đạo Lê Khắc Tùng vào dịp đầu năm rằm tháng Giêng, khi về dự ngày thơ Nguyên tiêu tổ chức ở hồ Bình Sơn (thị trấn Hương Khê) cách đó 3km. Cụ Lê Khắc Tùng vào khoảng 75 tuổi, da dẻ đỏ au, khuôn mặt phúc hậu. Rất lạ là cụ còn làm thơ ở trong Câu lạc bộ thơ Đường của huyện. Nhà cụ Tùng có vườn rộng, cây cối sum suê, đặc biệt là rất nhiều cây cau, cả một rặng cau cao vút. Tôi mới nghĩ về hình ảnh cây một trụ này tán lá nhỏ như cây dừa, cây thông khắp mọi miền tổ quốc và linh thiêng có cả cây chùa Một cột biểu tượng cho Thủ đô Hà Nội. Cụ Lê Khắc Tùng rót rượu mời chúng tôi nhân đầu năm mới. Tôi nhận ra vợ cụ - một bà lão tóc đã bạc phơ, dáng người nhỏ nhắn, nhỏ nhẹ trong cả nói năng, cư xử thật hiền dịu đang lặng lẽ ngồi têm trầu, rót nước chè xanh mời khách thật đon đả mà vẫn ý tứ còn nguyên dấu vết đảm đang, hiền thục của cô thôn nữ năm nào. Trong ngôi nhà nhỏ vách gỗ lợp ngói đã ngả màu rêu có gian thờ vua Hàm Nghi ở giữa, trên bàn thờ có di ảnh của Ngài và đặc biệt hương vòng lúc nào cũng đỏ. Cụ Tùng kể có lần ban đêm đang nằm thiu thiu ngủ thì có ác mộng báo kẻ trộm vào lấy báu vật của vua Hàm Nghi, cụ giật mình tỉnh dậy nhìn quanh, các cánh cửa vẫn đóng chốt nhưng nhìn lên bàn thờ thì hương vòng đã cháy hết mà chưa kịp thay. Từ đó, trước lúc đi ngủ, cụ lúc nào cũng thắp hương giữ phòng không bao giờ để tắt. Báu vật của vua Hàm Nghi được cất giữ cẩn thận trong két sắt, nghe nói ngày trước các cụ còn khoét cả cột nhà gỗ (Hương Khê vốn là vùng rừng nhiều gỗ, các cây gỗ cột nhà thường đường kính rất to), báu vật được luồn vào trong ốp gỗ lại, trát nhựa thông ngoài cùng màu gỗ liền phẳng không còn dấu vết. Những năm chiến tranh máy bay Mỹ đánh phá ác liệt vào làng, kể cả những năm tháng đói nghèo nhất, dân làng cũng không bao giờ chịu mất báu vật, chịu đổi báu vật để lấy gạo cứu đói.

Để tận mắt xem và chụp ảnh được các báu vật, chúng tôi phải đưa cả thẻ nhà báo và giấy tờ của thủ tục hành chính, lại phải liên hệ có người của Phòng văn hóa dẫn đi. Bởi két sắt phải có mấy lần chìa khóa mới mở được, trong đó huyện giữ 1 chìa, cụ cố đạo giữ chìa kiểu khác. Để có cho phép mở báu vật hay không phải tiến hành làm lễ xin keo. Cụ Cố đạo thay bộ quần áo lễ, đánh một hồi chuông, ba hồi trống rồi ngồi xuống chiếu gõ mõ và vái lạy thần linh để lo “phần âm” sau đó mới xin quẻ. Có nhiều đoàn kể cả cán bộ lãnh đạo cất công về đây, khi vào làm thủ tục xin quẻ gieo đôi đồng tiền 3 lần không được chấp thuận thì đành phải quay về vì luật lệ  “tâm linh” đã có như thế từ lâu phải chấp nhận. Thật may mắn chúng tôi như một cơ duyên được cho xem báu vật sau khi xin quẻ ứng thuận. Cụ Lê Khắc Tùng và một vài người dân láng giềng trải chiếc khăn đỏ lên bàn giới thiệu cho chúng tôi từng loại báu vật: trong hộp thiếc ba con voi hiện ra, 2 vàng và 1 đồng. Voi bằng đồng được đúc theo tư thế voi đang lâm chiến, vòi dài uốn cong vào tai phải, đuôi quặt mông cùng chiều bên phải, áp tai sát cổ, ngà cụt. Thân hình voi gầy, toàn thân lấm chấm lông. Voi vàng tạc theo tư thế đứng nhàn nhã, vòi buông thẳng, ngà nhọn, mặt tròn có nịt cổ và mang ngai vàng trên lưng. Ba con voi tuy kích thước nhỏ, con lớn nhất cao 4cm, lưng rộng 2,5cm; con nhỏ nhất cao 2,5cm, dài 3cm, lưng rộng 1cm nhưng đều toát lên dáng vẻ uy nghi vì nét chạm trổ sinh động. Chỉ với nghệ thuật chạm trổ tinh xảo như vậy, 3 con voi đã xứng danh là báu vật quốc gia chưa nói đến giá trị lịch sử. Báu vật còn có nghê đồng và chuỗi lục lạc 35 cái gắn màn gấm cho vua Hàm Nghi. Cụ Lê Khắc Tùng bảo: Sở dĩ có gắn lục lạc để phòng an ninh khi có kẻ đột nhập lật màn lập tức lục lạc kêu báo động cho quân cảnh vệ. Đã bao nhiêu năm trôi qua, màu đồng nguyên chất đã phai của từng hạt lục lạc nhưng lạ thay những bộ áo mũ triều thần, đặc biệt là hai chiếc áo Hoàng bào, chiếc áo lót của đức vua vẫn nguyên màu vàng tươi. Cố đạo Lê Khắc Tùng lấy ra 37 đạo sắc phong rực rỡ hoa văn. Trong những sắc phong ấy có sắc phong của chính vua Hàm Nghi phong thần cho “Hầu công kiến quốc nguyên Huân Dương chính tướng quân” ghi rõ: Hàm Nghi nguyên niên cửu nguyệt, nhị thập ngũ nhật, tức là ngày 25 tháng 9 năm 1885. Vậy là hơn 128 năm trôi qua, ngày đó giữa muôn trùng gian khó giữa rừng sâu bủa vây quân thù nhưng vua vẫn không quên những tầm lòng tận tụy vì nước vì dân mà ban sắc phong này cho Dương tướng công - vị tướng trấn ải biên cương tổ quốc thời Lê!

Ba con voi trong bộ báu vật
Ba con voi trong bộ báu vật


Thấy chúng tôi băn khoăn trước gian nhà đơn giản không xây tường gạch kiên cố, cổng vào ra chắn bằng tấm tre đan, cố đạo lại già, việc bảo vệ báu vật chắc không thể đảm bảo như các bảo tàng có thiết bị hiện đại canh phòng cất giữ. Cụ Tùng cười: “không lo chi mô, hàng đêm tôi vẫn ngủ ở đây để giữ quí vật đó”. Nói rồi cụ Tùng kể cho chúng tôi nghe câu chuyện được lưu truyền ở đây như một huyền thoại mà có thật: “không ai dám lấy báu vật mô, lấy là chết đó! Này nhé, năm 1936 một trong hai con voi vàng bị Lê Yêm, con trai của cố đạo giữ báu vật Lê Triết mang sang Lào bán để lấy tiền mua đàn bò. Nhưng trên đường trở về Lê Yêm bị một con bò húc vào bụng chết ngay tại chỗ, kẻ bạn đồng mưu với Lê Yêm là Lưu Duyên ở nhà bỗng nhiên phát điên đem con đẻ của mình bỏ vào nồi nước sôi. Kinh hãi vì cảnh ấy, người vợ của Lưu Duyên đã chết đứng, gia đình người Lào cũng gặp họa, sau khi biết được tin này hoảng sợ, làm lễ mang voi vàng trả lại cho dân làng Phú Gia. Hơn nữa ở đây ngoài sự bảo vệ của gia đình, Ban công an xã cũng có kế hoạch trông coi báu vật. Quả thật, đây là một tài sản lớn: một con nặng 27 đồng cân, một con nặng 17 đồng cân, mỗi đồng cân tương đương với một chỉ vàng. Ngoài ra còn bao báu vật khác vô giá. Đặc biệt là hai thanh kiếm màu đồng nung, lưỡi trắng, ngoài vỏ đề hai chữ “Phụng tự” như gợi lại cả một quá khứ oai hùng của lịch sử với hình bóng oai phong lẫm liệt của vua Hàm Nghi.

Chia tay với ông bà cụ cố đạo Lê Khắc Tùng và những người dân láng giềng của cụ ở ngôi nhà đơn sơ “bảo tàng của lòng dân” giữ báu vật của vua Hàm Nghi, tôi nhớ mãi hai câu thơ Đường luật của cụ Lê Khắc Tùng trong bài “Bạn và thơ”: “Sông Tiêm ấp ủ lòng thương nhớ - Ngàn Trụ ân tình dạ vấn vương”. Một tâm hồn thơ thắm thiết hồn quê và sâu thẳm là đức tin vào cội nguồn dào dạt như thế xứng đáng là người thay mặt dân làng gìn giữ báu vật, gìn giữ hồn làng hồn nước cho các thế hệ mai sau.

Nguyễn Ngọc Phú - Quốc Huy