30 tháng mở đường Tây Trường Sơn

04:04, 23/04/2014

Đồng chí Ma Quang, Đội trưởng đội 3 đến xây dựng cơ sở tại Yok You phát triển ra được nhiều buôn phía Nam huyện Đức Xuyên. Tháng 6/1960, đồng chí Ba Thu (Nguyễn Xuân Hòa) được bổ sung làm Bí thư chi bộ tiếp tục xây dựng, phát triển cơ sở đến buôn R'Bút Do, R'Bút Đạ (Tây nam tỉnh Tuyên Đức).

[links()] Đồng chí Ma Quang, Đội trưởng đội 3 đến xây dựng cơ sở tại Yok You phát triển ra được nhiều buôn phía Nam huyện Đức Xuyên. Tháng 6/1960, đồng chí Ba Thu (Nguyễn Xuân Hòa) được bổ sung làm Bí thư chi bộ tiếp tục xây dựng, phát triển cơ sở đến buôn R’Bút Do, R’Bút Đạ (Tây nam tỉnh Tuyên Đức).
 
Mở được hành lang Đ.2 (đội 2), Ban Cán sự Đảng các huyện ra đời. Huyện Đức Lập (Đakmil), đồng chí Ma Tân làm Bí thư. Huyện Kiến Đức, đồng chí Phùng Đình Ấm làm Bí thư. Huyện Khiêm Đức, đồng chí Ama Nhao (Lê Đạo) làm Bí thư kiêm Trưởng ban Giao bưu vận huyện, căn cứ đóng tại Nam Nung sau dời về núi Nâm - xơ - ri mang phiên hiệu E.25.
 
Phong trào cách mạng tại E.25 phát triển mạnh, cấp trên tăng cường đồng chí Nguyễn Đình Kính và một số anh em từ đội 2 sang đội 3. Huyện Khiêm Đức bổ sung cho 2 người dân tộc là Ma Bay và An để hình thành một đội công tác, Đội đã xây dựng cơ sở phát triển được 6 buôn trên địa bàn huyện Khiêm Đức. Phát huy thắng lợi, đội mở địa bàn sang Băng Dung, Con Ó, Con Cành và một số buôn thuộc xã Đăng Gia (huyện Đức Trọng, tỉnh Tuyên Đức).
 
Tháng 1/1961, Liên khu ủy 5 điều động 12 người và đồng chí Nguyễn Hữu Hồ (Năm Khanh) vào đội 3. Đồng chí Ma Quang làm đội trưởng, đồng chí Năm Khanh làm Bí thư chi bộ do Liên tỉnh 4 trực tiếp lãnh đạo giao nhiệm vụ cho đội xoi mở đường về phía đông nối liên lạc với B.5 đến E.25 để đi vào miền Đông Nam bộ.
 
Dựa vào căn cứ huyện Đức Xuyên, đội 3 lấy buôn R’Bút Đạ, R’Bút Do làm bàn đạp, vượt sông Đak R’Măng vũ trang tuyên truyền xây dựng được 5 buôn làm cơ sở.
 
Từ buôn Phi - ty - bút, đội qua sông K’Rông Nô vượt đường 21 đến buôn R’Chay bắt liên lạc được trạm giao liên của B.5. Từ B.5 vào Băng Zoon, đội đặt 4 trạm. Mỗi trạm bố trí từ 10 đến 12 người và một đội vận tải 12 người.
 
Dưới sự chỉ đạo của B.4, đồng chí Bí thư E.25 cho đặt thêm trạm Phi Lê do đồng chí Chính làm Trưởng trạm để móc nối với trạm Băng Zoon. Tháng 3/1961, Đội trưởng đội 3 báo cáo với đồng chí Bùi San (Chín Liêm) - Bí thư Liên tỉnh 4 đường hành lang Đ.3 đã hoàn thành.
 
Ngày 25/3/1961, đội 3 tổ chức chuyến trực đầu tiên, dẫn một đoàn cán bộ 30 người và vận chuyển một số kiện hàng đặc biệt từ B.5 (Lak) vào trạm Phi Lê, E.25 tiếp nhận đoàn. Đoàn hành quân tiếp vào trạm Đinh Xiết. Tại đây, C.200 dẫn đoàn vào miền Đông Nam bộ.
 
Nếu tính thời gian hành quân từ B.3 (Bắc Đaklak) đi vòng qua buôn Đôn vào B.4 đi mất gần một tháng nhưng từ ngày mở được đường hành lang Đ.3, bộ đội, cán bộ đi từ B.3 vào B.5 hành quân vào Đinh Xiết rút ngắn được mười ngày đường. Ban đầu, hành trình ba ngày một chuyến, sau đó duy trì 2 ngày một chuyến để lưu thoát hết khối lượng hàng từ miền Bắc, từ Vũng Rô đưa sang còn ứ đọng tại các tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đaklak. Trong số hàng ấy có thiết bị thông tin, Đài phát thanh, máy in, dụng cụ y tế…
 
Các trạm tổ chức đưa đón, bảo vệ an toàn các đồng chí lãnh đạo Trung ương Đảng, lãnh đạo Khu ủy 5 vào dự Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ nhất vào ngày 15/10/1961 tại Mã Đà (tỉnh Biên Hòa). Các đồng chí Trần Nam Trung, Võ Chí Công, Trương Chí Cương, Đỗ Quang Thắng, Trần Lê, Lê Dụ… đều đi lại trên con đường Đ.3.
 
(còn nữa)
 
Ghi chép: NGUYỄN THÁI HUYỀN