Đội 2 có nhiệm vụ bắt liên lạc với chiến khu Đ và Đông Nam bộ mang phiên hiệu C.300 do anh Nam Quốc Đăng (Lâm Quốc Đăng) và anh Hai Hùng phụ trách.
[links()]
Đội 2 có nhiệm vụ bắt liên lạc với chiến khu Đ và Đông Nam bộ mang phiên hiệu C.300 do anh Nam Quốc Đăng (Lâm Quốc Đăng) và anh Hai Hùng phụ trách.
|
Thanh niên xung phong trên đường Trường Sơn. Ảnh: TL |
Đồng chí Ama Cung làm đội trưởng đội 2 kiêm Bí thư Chi bộ, đồng chí Nguyễn Đình Kính là đội phó. Đội lấy buôn Gia Rá, huyện Đức Lập (Đakmil) xây dựng cơ sở phát triển được 5 buôn làm bàn đạp tiếp cận huyện Đức Lập tiến về khu vực Bu Róa, dinh điền Đức Mẹ (Đak Song) qua quốc lộ 14 bis và thượng nguồn sông Đạ Đờn tiến về chiến khu Đ (Phước Long).
Tháng 3/1960, đội nhận được điện báo đội C.300 đã xoi đến buôn Bu Gân, cách phía tây lộ 14 chừng hai ngày đường, khu vực Bu Róa. Đội móc nối được người dân, hỏi han mới biết Bu Róa là khu tập trung dân di cư, có tên tổng Giang, chỉ huy trung đội dân vệ, một tên ác ôn khét tiếng. Một đêm, đội đột nhập vào buôn Bu Bơ (Đaknông), tên tổng Giang phát hiện, huy động dân vệ bao vây, bắt được đồng chí Ma Thu và đồng chí Ma Cung. Đồng chí Bảy Kính (Nguyễn Đình Kính) gác vòng ngoài, dùng súng bắn giải vây. Nhờ có biết võ nghệ, Ama Cung, Ama Thu vung cánh tay giật đứt dây trói, phá vòng vây rút súng bắn tên tổng Giang. Tổng Giang bị gãy tay, dân vệ bỏ chạy. Đồng chí Ma Thu bị thương và mất một khẩu súng ngắn.
Đội chuyển về hướng tây lấy buôn Bu Ng’Lao làm bàn đạp, xây dựng Bu Róa làm cơ sở, xoi mở đường về ngã ba biên giới (trois Frontière).
Cuối tháng 9/1960, Ban lãnh đạo triệu tập đội về căn cứ học tập, bàn kế hoạch khẩn trương xoi mở đường. Đội được đồng chí Ba Hồng Ưng thông báo: Lực lượng C.300 đã mở đường đến phía Nam sông Đạ Đờn (thượng nguồn sông Đồng Nai).
Các đồng chí Ấm, Quai và Kính lên đường đến Bu Róa. Một tiểu đoàn địch đang càn quét vùng nam Đạ Đờn nên đội trở về báo với cấp trên xin hẹn gặp nhau một địa điểm khác. Qua vô tuyến điện, hai đội sẽ gặp nhau tại trụ cột cây số 4 trên đường 14 bis có ám tín hiệu: chặt hai khúc cây ba gang, cài chéo chữ X bên trên phủ một cành lá tươi. Gặp nhau hô mật khẩu: C.300 hô Thổ, đội 2 đáp Thủy…
Nhận được điện báo của C.300 báo 20 giờ đêm 4/12/1960 sẽ gặp nhau tại điểm hẹn. Các đồng chí Phúng Đình Ấm, Nguyễn Đình Kính, Nguyễn Quai và Ama Sa tìm đến trụ cột cây số 4. Họ đặt ám tín hiệu và rải quân phục kích chờ các chiến sĩ phía Nam tới.
Đội C.300 do đồng chí Hai Hùng phụ trách và 3 người đến điểm hẹn. Hai bên trao đổi thấy đúng mật khẩu, tất cả chạy ùa đến bắt tay, ôm nhau reo hò, báo hiệu: Đường hành lang phía Bắc nối với miền Đông Nam bộ và chiến khu Đ đã hoàn thành.
Hai đội về căn cứ gặp đồng chí Chín Liêm, Phó Bí thư Khu ủy 5 mới vào để xây dựng cơ sở mở đường hành lang nam Tây Nguyên. Đồng chí Liêm khen ngợi chiến công của hai đội. Các đội bắt đầu đặt các trạm dẫn đưa các đoàn cán bộ trung, cao cấp từ miền Bắc và B.3 (Đaklak) đã lâu, họ nằm đợi dẫn đưa vào Nam. Đồng chí Ama Nhao, Phó Bí thư đội 1 đón đoàn vượt sông Sérépock qua đường 14 đưa về căn cứ Đru Đak Rồ và hành quân tiếp vào chiến khu Đ.
Đồng chí Ama Nhao về, đi đón đoàn, đồng chí Ba Nghiêm đưa về căn cứ đội 2, đồng chí Phùng Đình Ấm cùng 4 đồng chí đội C.300 dẫn đường đưa đoàn theo tuyến hướng tây (Đ.2) về căn cứ Tỉnh ủy và đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến (Tám Kiến Quốc) chỉ huy lực lượng vũ trang miền Đông Nam bộ ra hoạt động tại vùng Bù Gia Mập.
Ghi chép: NGUYỄN THÁI HUYỀN