Phụ nữ miền Nam trên mặt trận đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ

09:03, 05/03/2015

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, phụ nữ Việt Nam nói chung và phụ nữ miền Nam nói riêng đã có nhiều đóng góp rất quan trọng trong công tác ngoại giao...

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, phụ nữ Việt Nam nói chung và phụ nữ miền Nam nói riêng đã có nhiều đóng góp rất quan trọng trong công tác ngoại giao. Với ý chí sắt đá, đầu óc khôn ngoan linh hoạt cùng với lý lẽ sắc bén, phong thái ung dung dịu dàng, xuất hiện trên mặt trận ngoại giao trong tà áo dài duyên dáng, họ đã có những tác động tích cực đến phong trào phụ nữ quốc tế; tranh thủ được sự ủng hộ của những lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình, chính nghĩa trên khắp thế giới đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước của nhân dân Việt Nam.
 
Lê Thị Xuyến - Chủ tịch đầu tiên của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 
 
Lê Thị Xuyến sinh năm 1909 tại Đại Hòa - Đại Lộc - Quảng Nam. Là nữ sinh Đồng Khánh (Huế). Năm 1928, vừa tốt nghiệp bậc Thành Chung vừa đỗ bằng sư phạm, bà được giữ lại làm giáo viên của Trường Đồng Khánh. Bà là vợ của Phan Thanh - một trí thức cách mạng nổi tiếng, quê làng Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Trong thời gian dạy học ở Hà Nội ngôi nhà của hai vợ chồng bà là đầu mối liên lạc của Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đặc biệt là thời kỳ chính quyền cách mạng còn non trẻ, bà đã có nhiều đóng góp to lớn trong việc tuyên truyền, vận động thành lập Mặt trận Liên Việt - tiền thân của Mặt trận Tổ quốc và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Bà là một trong 10 phụ nữ đầu tiên của cả nước được bầu làm Đại biểu Quốc hội. Đồng thời, bà đã từng giữ các chức vụ như: Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1946 - 1977); Phó Chủ tịch Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới Việt Nam (1952 - 1976); Ủy viên Ủy ban đoàn kết Á - Phi (1958 - 1988); Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban đoàn kết hữu nghị với các nước (1977 - 1983);... bà còn là Chủ nhiệm Báo Phụ nữ Việt Nam trong những năm đầu báo mới thành lập và có thời gian phụ trách Nhà Xuất bản Phụ nữ. Bà mất năm 1996 tại Hà Nội.
 
Nguyễn Thị Minh Khai - Nữ bí thư Thành ủy Sài Gòn đầu tiên 
 
Nguyễn Thị Minh Khai tên thật là Nguyễn Thị Vịnh, sinh năm 1910 tại xã Vĩnh Yên, thành phố Vinh - Nghệ An. Sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước lại được theo học quốc ngữ từ nhỏ, năm 16 tuổi, chị đã tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1927, chị gia nhập Đảng Tân Việt, lấy bí danh là Minh Khai. Sau đó, trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương phụ trách công tác tuyên truyền, vận động phụ nữ, tổ chức huấn luyện đào tạo cán bộ cho Đảng, làm nòng cốt cho cao trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Từ 1930 đến 1935, chị được tổ chức đưa ra nước ngoài học tập và hoạt động trong tổ chức Quốc tế Cộng sản và tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 7 ở Mát-xcơ-va, chị là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên phát biểu tham luận về vai trò của phụ nữ Đông Dương trong cuộc đấu tranh chống chiến tranh đế quốc và bảo vệ hòa bình. Năm 1937, chị trở về nước và được bầu vào Xứ ủy Nam Kỳ làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, lãnh đạo các cơ sở cách mạng và nhân dân đấu tranh. Năm 1940, giữa lúc phong trào đang phát triển mạnh mẽ thì chị bị địch bắt giam tù đày tra tấn rất dã man và bị chúng kết án tử hình nhưng chị vẫn giữ vững khí tiết của một chiến sĩ Cộng sản. Chị hi sinh lúc mới 31 tuổi nhưng tên tuổi và sự nghiệp cách mạng cao quý của chị vẫn mãi được nhân dân tưởng nhớ và lịch sử khắc ghi.
 
Nguyễn Thị Bình - Sứ giả hòa bình của Việt Nam
 
Bà vốn quê ở Quảng Nam nhưng được sinh ra (năm 1927) tại Sa Đéc - Đồng Tháp. Bà tham gia phong trào đấu tranh cách mạng từ 1945 và trở thành một trong những người lãnh đạo phong trào Phụ nữ cứu quốc Sài Gòn - Chợ Lớn, phong trào học sinh sinh viên, phong trào đấu tranh bảo vệ hòa bình của giới trí thức ở miền Nam. Bà đã từng giữ các chức vụ: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam (1960), Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Trưởng phái đoàn đàm phán tại Hội nghị quốc tế Paris về Việt Nam, ký kết Hiệp định Paris về Việt Nam năm 1973. Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nước CHXHCN Việt Nam (1976 - 1987), Phó Chủ tịch Nước CHXHCN Việt Nam (1992).Vốn được sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước, trưởng thành trong phong trào đấu tranh cách mạng với bản tính thông minh, duyên dáng, lại có tài thuyết phục, Nguyễn Thị Bình rất thành công trong hoạt động ngoại giao. Khi tiếp xúc với các nguyên thủ quốc gia và bạn bè quốc tế bà đã để lại ấn tượng tốt đẹp cũng như tuyên truyền, vận động được nhiều nước trên thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh đòi hòa bình giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam. Với vai trò là “sứ giả hòa bình”, bà đã có những đóng góp không nhỏ vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh cách mạng của dân tộc.
 
Bà Nguyễn Thị Bình - Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam ngày 27/1/1973
Bà Nguyễn Thị Bình - Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam ngày 27/1/1973
 
Nguyễn Thị Định - Nữ tướng đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam
 
Nguyễn Thị Định (1920 - 1992) được sinh ra trên vùng quê Lương Hòa - Giồng Trôm - Bến Tre trong một gia đình nông dân giàu lòng yêu nước và cách mạng. Tuổi ấu thơ, gia đình đông anh em lại phải sống trong xã hội thực dân phong kiến, bà không có điều kiện cắp sách đến trường, tuy không được học nhiều nhưng bà lại rất thông minh, nhạy cảm và lắm mưu trí, thích đọc sách và ham hiểu biết. Nguyễn Thị Định đã sớm giác ngộ và tham gia cách mạng từ rất sớm (năm 16 tuổi). Năm 1938, bà đã trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Chồng hi sinh khi tuổi đời còn trẻ, con nhỏ, nhưng với ý chí kiên cường và lòng căm thù giặc sâu sắc bà đã thoát ly hoạt động cách mạng, nhiều lần bị địch bắt bớ tù đày nhưng chúng không khuất phục được bà. Nguyễn Thị Định là người được chọn làm thuyền trưởng đầu tiên vượt biển ra Bắc báo cáo với Trung ương Đảng và Bác Hồ về tình hình chiến sự ở Nam bộ và xin vũ khí chi viện, từ đó khởi đầu cho “con đường Hồ Chí Minh trên biển”. Sau đó, bà là người chỉ huy thắng lợi cuộc Đồng khởi ở Bến Tre, cũng như tham gia chỉ huy trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy 1968, là hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam, bà đã lãnh đạo đội quân tóc dài lập nên nhiều chiến công lừng lẫy, làm giặc nhiều phen lao đao, lúng túng, góp phần đưa phong trào cách mạng Việt Nam chuyển từ thế phòng ngự, sang thế tấn công dẫn đến thắng lợi hoàn toàn. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng bà đã từng đảm nhận các chức vụ: Chủ tịch Hội Phụ nữ, Phó Tổng Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam... bà đã được Đảng và Nhà nước cùng các tổ chức quốc tế tặng thưởng nhiều huân chương và giải thưởng cao quý như: Huân chương Hồ Chí Minh, giải thưởng hòa bình quốc tế Lê-nin, Huân chương Liên đoàn phụ nữ dân chủ thế giới. Lúc sinh thời, bà đã từng được Bác Hồ khen ngợi: “Phó Tổng Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam là cô Nguyễn Thị Định. Cả thế giới chỉ có nước ta có vị tướng quân là nữ như vậy. Thật vẻ vang cho cả miền Nam và cho cả dân tộc ta”. 
 
ÐOÀN BÍCH NGỌ