Chúng tôi đã tìm đọc lại bài báo của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện in lần đầu trên tạp chí Pháp La Pensée, xin tóm lược dưới đây những ý lớn.
Chúng tôi đã tìm đọc lại bài báo của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện in lần đầu trên tạp chí Pháp La Pensée, xin tóm lược dưới đây những ý lớn.
|
Lòng yêu nước biểu hiện qua từng hành động, việc làm hằng ngày của mỗi chúng ta. Ảnh Internet |
Paul Mus và Nguyễn Khắc Viện
Tại hồi ký Ước mơ và Hoài niệm (NXB Đà Nẵng, 2003), bác sĩ Nguyễn Khắc Viện kể: Nhân một buổi tranh luận với nhà văn Albert Camus về quan hệ giữa Nho giáo và học thuyết Mác tại Việt Nam, ông có đưa ra mấy luận điểm của mình. Những luận điểm ấy sau đó được ông viết thành bài, gửi đăng tạp chí La Pensée, và được dư luận quốc tế và nước ta chú ý vì cách đặt vấn đề không mang tính giáo điều như nhiều người vẫn hay làm thời đó. Bài báo của Nguyễn Khắc Viện được dịch sang nhiều thứ tiếng trên thế giới, Nhà Xuất bản Sự thật, Hà Nội cũng có dịch ra tiếng Việt, in thành tập sách mỏng.
Lần ấy, nhà văn Albert Camus trao đổi với bác sĩ Nguyễn Khắc Viện như sau: Hòa bình thế giới có thể được bảo vệ nếu những người có thiện chí trên thế giới cùng nhau lập ra một hội đoàn quốc tế theo cách làm của các sĩ phu Nho học và dựa trên học thuyết của Khổng tử. Nguyễn Khắc Viện hỏi: “Anh căn cứ vào cơ sở nào để nghĩ rằng học thuyết Nho giáo có thể phục vụ việc thiết lập nền hòa bình thế giới ngày nay”? Albert Camus trả lời: “Dựa trên các văn bản của Khổng tử mà tôi đọc được”.
Nguyễn Khắc Viện phản bác: Ngày nay ở nước Việt Nam không đâu dạy chữ Nho trong nhà trường. Khi tôi còn bé, đến trường học, thầy giáo dạy chúng tôi theo sách giáo khoa Pháp, rằng “tổ tiên chúng ta là người Gô-loa”. Dù vậy, áp lực chính thống của Nho giáo luôn đè nặng lên tuổi trẻ chúng tôi. Người ta nhân danh Khổng Tử để ngăn cấm chúng tôi nhiều điều, cũng như buộc chúng tôi phải tuân theo nhiều thứ kỷ luật (Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện ra đời trong một gia đình Nho học. Thân sinh ông là cụ Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm, một nhà nho xuất sắc, người tỉnh Hà Tĩnh. Cụ từng làm quyền Tổng đốc tỉnh Thanh Hóa. Sau ngày Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, cụ tham gia Hội Liên Việt (Mặt trận Tổ quốc ngày nay) tại Liên khu 4). Người ta chủ trương hòa hay chiến, theo ai chống ai đều xuất phát từ quan điểm Nho giáo. Cuộc đấu tranh chống lại những điều cổ hủ có nguồn gốc từ Nho giáo chính thống, cũng như việc tiếp thụ những mặt tích cực của nó tại nước Việt Nam ngày nay là một vấn đề thực tiễn chứ đâu phải chỉ có chuyện qua sách vở.
Ông phân tích: Từ 1075 đến 1919, qua gần 940 năm, cả nước Việt Nam chỉ có hơn hai nghìn người đỗ tiến sĩ. Ai trở thành ông Nghè khắc được làm quan to. Do vậy tuổi trẻ Việt Nam thời trước luôn tin tưởng và ước mơ, cứ học hành thi cử cho thành đạt, ta sẽ thoát khỏi thân phận người dân thường và bước vào đẳng cấp quan lại.
Nguyễn Khắc Viện cho rằng “Khổng tử là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên của nhân loại đã tập trung sự chú ý của con người vào các vấn đề thuần túy con người”. Dưới chế độ phong kiến, các nho sĩ Việt Nam học rất nhiều nhưng kiến thức họ lại hạn chế, vì họ chỉ quan tâm đến khoa học nhân văn mà hoàn toàn không chú ý những gì thuộc về tự nhiên. Nguyễn Trãi là một nhà nhân văn chủ nghĩa đúng theo nghĩa ấy. Sau khi Việt Nam chiến thắng quân Minh xâm lược, Nguyễn Trãi đã nói lên với một giọng đầy tự hào dân tộc, tự hào của những con người mở ra một thời đại mới: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân cứu nước trước cần trừ bạo/ Xét như Đại Việt ta/ Thật là một nước văn hiến (Bình Ngô đại cáo, 1428). Như vậy, Nho giáo của Nguyễn Trãi khác xa Nho giáo đã hấp dẫn Albert Camus, một thứ Nho giáo “bỏ qua luật pháp và thiết chế, chối từ mọi cải cách”.
Đại đa số những trí thức theo đạo Nho ở Việt Nam ngày trước đều có xu hướng bảo vệ chế độ truyền thống một cách hữu thức hoặc vô thức. Tuy nhiên nhiều nhà nho lớn hằng ngày sống gần gũi nhân dân, họ không thể không nhìn thấy mặt trái của xã hội. Đối với những nho sĩ nổi loạn, hay mới là gắn bó với nông dân mà họ là những cố vấn trong cuộc sống thường ngày, thì ý nghĩa về Hoàng đế, về thời thái bình thịnh trị của vua Nghiêu vua Thuấn bên Tàu thuở xa xưa toàn là chuyện trong tưởng tượng. Trong dân gian Việt Nam có câu thành ngữ: “Được làm vua, thua làm giặc”. Đối lập với mỗi châm ngôn của Nho giáo cổ điển, người ta dễ dàng tìm thấy một ngạn ngữ dân gian có nội dung ngược lại. “Chèo”, loại hình sân khấu dân gian rất được ưa chuộng ở Việt Nam, chủ yếu thuộc thể loại nghệ thuật trào phúng. Các vở chèo hay đưa quan lại và kỳ hào ra chế giễu. Vương triều và quan lại coi chữ Hán là ngôn ngữ chính thức, nho sĩ gần gũi với nhân dân lại thích viết bằng chữ Nôm hơn, để cho người dân dễ hiểu, dễ cảm thông (mà Truyện Kiều và Lục Vân Tiên là những thí dụ điển hình - PQ). Phong trào nông dân Tây Sơn thành công, có ý định đã chuẩn bị dùng chữ Nôm làm chữ viết chính thức, nhưng chỉ một thời gian sau, Nguyễn Huệ bị Nguyễn Ánh đánh bại. Vừa lên làm vua, Nguyễn Ánh đã quyết định dùng chữ Hán làm ngôn ngữ chính thống. Tại nước Việt Nam các thế kỷ trước, thường xuyên tồn tại song song hai luồng tư tưởng Nho học, một luồng chính thống, một luồng dân gian. “Thiếu sót lớn nhất trong cuốn sách của Paul Mus nghiên cứu về xã hội Việt Nam là ông chỉ trình bày những tư tưởng và tín ngưỡng của người Việt dựa trên luồng Nho học chính thống mà thôi”, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện phân tích.
Nguyễn Khắc Viện viết: Kiến thức của nhà nho so với chúng tôi (những trí thức Tây học) còn bị hạn chế nhiều, nhưng họ là những “Con người”, những “Cây tre mọc thẳng”, những “Cây thông đứng vững” (“Kiếp sau xin chớ làm người/ Làm cây thông đứng giữa trời mà reo” - Nguyễn Công Trứ). Chúng tôi học vấn cao hơn nhưng chỉ là những “cái túi kiến thức”, những “cây sậy sẵn sàng rạp mình trước gió nhẹ” (Ý của Blaise Pascal (1623-1662): Con người là cây sậy biết suy nghĩ, cây sậy rạp mình trước mọi làn gió nhẹ), khi gặp gian khổ thì không thể nào tin cậy. Cũng như các quan lại thời xưa, mấy ngàn trí thức được đào tạo dưới thời thuộc địa tại các trường đại học bên Pháp hay tại Việt Nam ngày nay hầu hết đều sống xa nhân dân. Khi các nhà yêu nước chống chế độ thực dân ra lời kêu gọi, cả nước từ Nam ra Bắc đều hưởng ứng, vì các nhà nho sống ở làng quê, có quan hệ mật thiết với nông dân. Trí thức Tây học chúng tôi bị chìm giữa đất nước bị nước ngoài thống trị, không có kim chỉ nam, không có gậy chỉ đường. Giới trí thức Việt Nam thời thuộc địa không thể nào đóng vai trò như các nho sĩ thời Nguyễn Trãi.
Từ phản biện luận điểm của Paul Mus về ảnh hưởng của Khổng giáo đối với nông dân, Nguyễn Khắc Viện lý giải con đường từ Nho giáo đến chủ nghĩa Mác ở Việt Nam. Những chiến sĩ Mác-xít đầu tiên ở Việt Nam phần lớn là những “trí thức nhỏ”, phải thôi học trước khi đỗ tú tài để kiếm sống. Là những “cu ly cầm bút”, họ chia sẻ sự nghèo khó với công nhân và nông dân, họ cũng chịu tủi nhục, cũng lo thất nghiệp. Chủ nghĩa Mác đến với Việt Nam không phải với tư cách một học thuyết như mọi học thuyết khác mà như một công cụ giải phóng dân tộc.
Những quan lại lỗi thời của triều Nguyễn, những nhà trí thức đi làm chức sắc cho chế độ bảo hộ của Pháp sớm hay muộn rồi cũng sẽ trở thành những kẻ phục vụ chế độ thực dân một cách điên cuồng. Các nhà nho yêu nước lỗi lạc như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng lại có cảm tình ngay với học thuyết Mác khi nó vừa xuất hiện ở Việt Nam. Căm thù chế độ thuộc địa, họ cảm thấy gắn bó sâu sắc với những chiến sĩ cách mạng kiểu mới, hai bên gần gũi với nhau trên lĩnh vực tư tưởng.
Chủ nghĩa Mác đến Việt Nam không gặp nhiều khó khăn như khi du nhập vào các xã hội Hồi giáo hay Thiên chúa giáo. Chủ nghĩa Mác không làm cho các nho sĩ Việt Nam thường xuyên gắn bó với nhân dân ngỡ ngàng. Học thuyết Mác coi con người là tổng hòa của các quan hệ xã hội thì các nho sĩ Việt Nam coi mục đích cao cả của con người là gánh vác những trách nhiệm xã hội. Những chiến sĩ Mác-xít sẵn sàng và biết cách vận dụng đạo đức chính trị của Nho giáo cho công việc của mình. Chẳng hạn, ý thức rằng những người lãnh đạo phải tuyệt đối gương mẫu ăn rất sâu vào truyền thống Nho giáo ở Việt Nam, và những người Mác-xít Việt Nam ngày nay, trong khi tìm cho nó một ý nghĩa khác, đã biết kế thừa truyền thống của các nho sĩ thời xưa. Không để cho tiền bạc làm hư hỏng con người, không chịu cúi đầu trước sức mạnh - những châm ngôn ấy của Nho giáo được những người Mác-xít Việt Nam ca ngợi nhiều lần. Bernard Fall, một học giả chống cộng, tại một cuốn sách viết về Việt Nam cũng buộc lòng phải công nhận đạo đức cao cả của những người cộng sản Việt Nam. Ông có kể lại trường hợp những cán bộ đi thu thuế luôn mang theo bên mình một số tiền lớn mà đành chịu đói, không tiêu tiền của tập thể dù chỉ một đồng.
Theo nhận thức của người viết bài này, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện suốt đời chung thủy với niềm tin: Nho giáo ở Việt Nam vốn có hai luồng, một luồng mang tính nhân văn, một luồng của triều đình và phong kiến (và đây là điểm ông khác biệt với Paul Mus về luận thuyết ảnh hưởng của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam thời xưa cùng thời ông sống - từ đầu thế kỷ XX đến những năm thực dân Pháp thất bại và đế quốc Mỹ ngụp lặn trong đầm lầy chiến tranh tại Việt Nam). Theo Nguyễn Khắc Viện, Nho giáo và chủ nghĩa Mác khác nhau nhưng có điểm tương đồng là cùng tập trung tư tưởng con người vào việc đổi mới tổ chức xã hội, xây dựng mối quan hệ tốt giữa người và người. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp và Đảng Cộng sản Việt Nam, ông thuộc luồng Nho giáo mang tính nhân văn, trong trước tác cũng như hành xử hằng ngày, trước sau ông đồ Tây học xứ Nghệ vẫn là một “sĩ phu Việt Nam hiện đại”.
Tháng 12 năm 2017
PHAN QUANG