Du nhập vào Việt Nam từ năm 2005, nghề nuôi cá nước lạnh phát triển ra 25 tỉnh có điều kiện nhiệt độ phù hợp thuộc miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Trong đó, Lâm Đồng là tỉnh có nghề nuôi cá nước lạnh lớn nhất cả nước với 34 đơn vị, doanh nghiệp, hộ gia đình nuôi trên 60 trang trại với tổng diện tích nuôi ao, bể nước chảy khoảng 83 ha và 200 lồng nuôi tương đương 4.000 m3 trên hồ chứa nước. Sản lượng đạt 2000 tấn/năm (chiếm 70% sản lượng cá nước lạnh cả nước), nhưng mới chỉ đáp ứng 50% nhu cầu thị trường trong nước.
Mô hình ứng dụng công nghệ “Sông trong ao” phát triển nghề nuôi cá tầm thích hợp với điều kiện Lâm Đồng |
Công nghệ nuôi cá tầm trên địa bàn tỉnh đến nay chủ yếu được nuôi theo các hình thức phổ biến là: nuôi trong bể (xi măng hoặc lót bạt) nước chảy, với nguồn nước cấp trực tiếp từ các sông, suối đầu nguồn và nuôi trong lồng trên các hồ chứa. Đối với công nghệ nuôi ao nước chảy và bể nước chảy, nguồn nước từ các sông, suối tự nhiên vùng đầu nguồn được xem là nguồn nước đảm bảo chất lượng mà không qua hệ thống xử lý nước, sử dụng trực tiếp chảy vào hệ thống nuôi 24/24 giờ và thải trực tiếp trở lại sông, suối chảy xuống hạ lưu. Công nghệ này phụ thuộc hoàn toàn vào chất lượng và số lượng nguồn nước từ tự nhiên tại các sông, suối vùng đầu nguồn, dẫn đến hạn chế khả năng mở rộng quy mô các cơ sở nuôi cá tầm. Hơn nữa việc cạnh tranh trong sử dụng nguồn nước nuôi cá cũng dẫn đến nhiều hệ lụy không mong muốn. Hiện nay, rất khó để tìm kiếm được các địa điểm phù hợp (nguồn nước trong sạch, đầu nguồn sông, suối, nhiệt độ phù hợp, tiện đường giao thông) để nuôi cá tầm theo công nghệ này, việc mở rộng quy mô sản xuất càng khó; trong khi vùng nhiệt độ để có thể phát triển nuôi cá tầm ước tính trên 60% diện tích của tỉnh.
Nhằm khai thác hết tiềm nay nuôi cá nước lạnh, Sở Khoa học và Công nghệ Lâm Đồng đã triển khai nhiệm vụ “Ứng dụng công nghệ “sông trong ao” của Isarel để xây dựng mô hình nuôi cá thương phẩm thích hợp với điều kiện tỉnh Lâm Đồng”. Theo đó, Sở giao cho Trung tâm Quốc gia Giống thủy sản nước ngọt miền Trung thực hiện nhằm nghiên cứu khảo nghiệm tìm ra công nghệ nuôi phù hợp để có thể mở rộng quy mô phạm vi nuôi cá tầm, tăng sản lượng cá nước lạnh.
Hệ thống thiết bị công nghệ “sông trong ao” gồm máy thổi khí vận hành liên tục; máy quạt nước để tăng cường hàm lượng ôxy qua mương nuôi; hệ thống thu gom và loại bỏ chất thải ra khỏi hệ thống nuôi; máy phát điện dự phòng luôn sẵn sàng vận hành cho trường hợp mất điện. Qua đó, nhằm tạo ra dòng chảy nhân tạo và đảm bảo nguồn nước luôn sạch để ao trở thành “sông” phù hợp với loài cá nước lạnh.
Sau 1 năm xây dựng mô hình thử nghiệm công nghệ “Sông trong ao”, đề tài đã xây dựng 3 ao nuôi, diện tích 2.000 m2/ao tại huyện Đức Trọng. Trong ao nuôi bố trí 1 mương nuôi, diện tích mương 125 m2, thể tích là 250 m3, trong đó diện tích phần nuôi cá là 110 m2, thể tích nước 165 m3 với 3 mật độ nuôi ở 3 ao khác nhau: 10 con/m2, 13 con/m2, 16 con/m2. Trong quá trình xây dựng mô hình, nhóm các nhà khoa học, các chuyên gia của Trung tâm Quốc gia Giống thủy sản nước ngọt miền Trung do TS.Nguyễn Viết Thùy làm chủ nhiệm đã tiến hành thực hiện chăm sóc, quản lý chặt chẽ như: kiểm tra tình hình sử dụng thức ăn của cá hàng ngày để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp; cho ăn bổ sung thêm vitamin C, khoáng tổng hợp, men tiêu hóa, dầu gan mực theo định kỳ 1 tuần đầu tiên của tháng để tăng cường sức khỏe cho cá nuôi; theo dõi sinh trưởng của cá nuôi theo định kỳ 1 lần/tháng, thu ngẫu nhiên 30 cá thể/mương để cân khối lượng; theo dõi số lượng cá chết, đánh giá nguyên nhân và thực hiện các biện pháp phòng và trị bệnh kịp thời cho cá nuôi.
Định kỳ mỗi tháng 4-6 lần bón chế phẩm sinh học cho ao để duy trì chất lượng nước, với liều lượng 1 lít/1.500 m3 nước ao/lần. Số lần bón chế phẩm sinh học mỗi tháng tăng dần từ đầu đến cuối chu kỳ nuôi theo sự tăng trưởng của cá. Cấp nước bổ sung cho ao 1-2 ngày/lần, tương ứng với lượng nước bị hao hụt do quá trình bốc hơi và thẩm thấu. Thay nước tầng đáy cho ao theo định kỳ 1-2 lần/tháng, lượng nước thay 50%/lần.
Hệ thống thiết bị công nghệ sông trong ao được vận hành theo đúng quy trình đã xây dựng và áp dụng gồm: máy thổi khí cho đơn vị nước trắng vận hành 24 giờ/ngày và trong toàn bộ chu kỳ nuôi. Bổ sung máy quạt nước công suất 0,75KW để tăng cường hàm lượng ôxy và dòng chảy qua mương nuôi. Máy quạt nước vận hành theo chu kỳ 45 phút chạy, 15 phút dừng. Vận hành hệ thống thu gom và loại bỏ chất thải ra khỏi hệ thống nuôi 3-5 lần/ngày, số lần vận hành tăng dần từ đầu đến cuối chu kỳ nuôi. Vệ sinh mắt lưới cổng chắn cá 1-2 lần/tuần. Vớt bỏ một số loại rác phát sinh trôi nổi trên bề mặt nước ao hàng ngày. Máy phát điện dự phòng 25KVA luôn sẵn sàng vận hành cho trường hợp mất điện và luôn được kiểm tra chạy thử máy 1 lần/tuần.
Sau 12 tháng nuôi, Mô hình nuôi cá tầm thương phẩm theo công nghệ “Sông trong ao” ở các mật độ khác nhau đạt tổng sản lượng 7.717 kg, khối lượng cá trung bình 2,2 kg/con, tỷ lệ sống trung bình 82%, năng suất trung bình 23,4 kg/m2 mương, hệ số tiêu tốn thức ăn trung bình 1,7. Cá nuôi ở mật độ càng thấp thì tốc độ tăng trưởng càng nhanh; cụ thể, ở mật độ 10 con/m2 có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất (trung bình 2.687 g/con), ở mật độ 13 con/m2 (2.367 g/con) và thấp nhất ở mật độ 16 con/m2 (2.063 g/con).
Với kết quả đạt được ban đầu của mô hình, Trung tâm Quốc gia Giống thủy sản nước ngọt miền Trung phối hợp cùng Sở Khoa học và Công nghệ tổ chức hội thảo đầu bờ, giới thiệu phổ biến rộng rãi mô hình cho đại diện Trung tâm Nông nghiệp các huyện, thành: Đà Lạt, Bảo Lộc, Bảo Lâm, Di Linh, Đức Trọng, Lâm Hà, Đơn Dương, Lạc Dương, Đam Rông và các hộ dân có nuôi cá nước lạnh. Từ đó, có thể ứng dụng mô hình tại mỗi huyện, thành có điều kiện nhiệt độ nuôi cho phép.
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin