(LĐ online) - Ngày 15/10/1949, trên Báo Sự thật, cơ quan tuyên truyền kháng chiến của Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác ở Đông Dương (thực chất là cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Đông Dương), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài báo có đầu đề là “Dân vận” với bút danh X.Y.Z. Tác phẩm được trình bày hết sức ngắn gọn, với dung lượng chỉ hơn 600 từ, nhưng hàm chứa nhiều nội dung công việc thiết thực và cấp bách với những chỉ dẫn quý báu về mục đích, tầm quan trọng, nội dung, chủ thể, đối tượng, biện pháp… tiến hành công tác dân vận.
Trong mục I của tác phẩm, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [1]. Chữ “dân” được Người nhắc đến nhiều lần trong từng câu, đó là nguyên lý cơ bản để xây dựng những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng ta đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Dân, nhân dân, quần chúng nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là cùng bản chất và nếu chỉ dùng một từ cũng đủ ý nghĩa thì đó là “Dân”. Dân không phải là một khái niệm chung chung, trìu tượng mà rất cụ thể, phản ánh rõ quan điểm giai cấp và quan điểm quần chúng một cách khoa học, sáng tạo của Hồ Chí Minh. Theo đó, dân là những “con dân nước Việt”, “con Rồng cháu Tiên”, “con Lạc cháu Hồng” không phân biệt thành phần dân tộc, tôn giáo, già trẻ, gái trai, giàu, nghèo... mà bao gồm mọi tầng lớp trong xã hội có chung một vận mệnh, một truyền thống lịch sử văn hóa; có lòng ái quốc; trong đó “công, nông là gốc cách mạng”.
Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là lực lượng, là động lực của cách mạng mà còn là mục đích của cách mạng. Nhân dân bao giờ cũng được Người đặt trong mối quan hệ biện chứng với Đảng, Nhà nước và các đoàn thể tổ chức, với cán bộ, đảng viên. Ở những mối quan hệ này, Người nhấn mạnh rằng mọi chủ trương và việc làm đều phải vì dân một cách thiết thực, mà quan trọng hơn nữa là phải do Nhân dân một cách thật sự, có thật sự do Nhân dân thì mới vì dân một cách lâu dài, vững chắc được.
Trong mục II của tác phẩm - “DÂN VẬN LÀ GÌ?”, Bác lưu ý, “không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ. Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được” [2]. Dân vận theo Hồ Chí Minh là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể đã giao cho. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”[3]. Đối với quân đội, Người nhấn mạnh: “Điểm trọng yếu là bất kỳ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đều phải bám sát lấy dân, rời dân ra nhất định thất bại. Bám lấy dân là làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu”[4]. Trong Lời kêu gọi thi đua ái quốc ngày 11/6/1948, Người chỉ rõ: “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ đều cần phải trở nên một chiến sĩ, tranh đấu trên mặt trận: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa”… “Cách làm là dựa vào: Lực lượng của dân, tinh thần của dân, để gây hạnh phúc cho dân”[5].
Quán triệt tinh thần đó, thời gian qua, cấp ủy, tổ chức đảng ở đơn vị cơ sở trong toàn quân đã thực hiện tốt hướng dẫn của Tổng cục Chính trị về xây dựng mô hình, điển hình “Dân vận khéo”, “Đơn vị dân vận tốt” trên các lĩnh vực: Tuyên truyền, vận động cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân, đấu tranh, phản bác với các quan điểm sai trái, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; tham gia củng cố hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tham gia xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, thực hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững; phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn đơn vị đóng quân và phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống; phát huy dân chủ, nâng cao hiệu quả tham gia đóng góp ý kiến với cấp ủy, người chỉ huy các cấp nhằm đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, hiệu lực điều hành, thực hiện cải cách hành chính quân sự... Các cơ quan, đơn vị phối hợp chặt chẽ với nhau trong thực hiện công tác bồi dưỡng, xây dựng, nhân rộng điển hình “Dân vận khéo”, “Đơn vị dân vận tốt”, tạo sự lan tỏa rộng rãi, sự hưởng ứng tích cực của cán bộ, chiến sĩ trong từng đơn vị.
Hằng năm, các đơn vị cơ sở đều tổng hợp các mô hình, điển hình để biểu dương, khen thưởng và tuyên truyền, học tập nhân rộng gương người tốt việc tốt. Các đơn vị cơ sở đã tổng hợp, lựa chọn gương điển hình “Dân vận khéo”, “Đơn vị dân vận tốt” và các phong trào, mô hình và sáng kiến tiêu biểu của các đơn vị... Theo tổng hợp, hơn 10 năm qua, toàn quân đã có gần 6.200 lượt tập thể “Đơn vị dân vận tốt” và hơn 16.000 lượt cá nhân điển hình “Dân vận khéo” được khen thưởng ở các cấp trong toàn quân. Các đơn vị cơ sở trong toàn quân đã phối hợp với các cơ quan thông tấn, báo chí Trung ương, địa phương đưa tin hàng chục nghìn tin, bài, phóng sự về thực hiện Phong trào thi đua “Dân vận khéo”, xây dựng “Đơn vị dân vận tốt”. Việc vận dụng những giá trị của tác phẩm “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thực hiện Phong trào thi đua “Dân vận khéo”, xây dựng “Đơn vị dân vận tốt” đã góp phần tác động tích cực, đẩy mạnh phong trào thi đua Quyết thắng ở đơn vị cơ sở trong toàn quân lên tầm cao mới, thực sự sôi nổi, thiết thực, hiệu quả.
Nhiều mô hình, điển hình tiêu biểu có ý nghĩa chính trị - xã hội như: Mô hình “Thầy giáo, thầy thuốc quân hàm xanh”, “Tăng cường cán bộ cho cơ sở” của Bộ đội Biên phòng; “Tết quân dân”, thực hiện tốt “4 cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc) của các Quân khu; “4 bám” (bám cơ sở; bám cấp ủy, chính quyền; bám Nhân dân; bám đối tượng) của Quân khu 5; “Lực lượng dân quân vững mạnh, thôn bản bình yên”, “Vận động đồng bào dân tộc thiểu số xóa các hủ tục, ổn định cuộc sống, xây dựng nếp sống mới vùng dự án” của Quân khu 2; “Gắn kết yêu thương giữa lương và giáo” của Quân khu 4; “Nhà bảo vệ Tổ quốc”, “Liên quân ba màu áo” của Ban Chỉ huy quân sự, Công an và Bảo vệ các khu công nghiệp, khu dân cư, “Chốt dân quân thường trực”, “Tổ tư vấn tâm lý, pháp luật”, “Nhận con nuôi đồn biên phòng” của Quân khu 5, Bộ đội Biên phòng, Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội; “Hải quân Việt Nam làm điểm tựa cho ngư dân vươn khơi, bám biển” của Quân chủng Hải quân; “Đồng hành với ngư dân” của Cảnh sát biển..., đã được cấp ủy, chính quyền các địa phương và Nhân dân đánh giá cao, tô thắm hình ảnh, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân.
Cùng với đó, các phong trào, chương trình tiêu biểu như: Phong trào “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”; Hành trình “Quân đội chung tay vì sức khỏe cộng đồng”, “Quân đội chung tay vì người nghèo”; Chương trình “Kết hợp quân dân y”, “Nâng bước em tới trường”, “Đồng hành cùng phụ nữ biên cương”, “Bò giống giúp người nghèo nơi biên giới”... đều phát huy rất tốt tác dụng, hiệu quả thiết thực, ghi dấu ấn, mang ý nghĩa chính trị - xã hội cao, qua đó góp phần tuyên truyền, vận động cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Có thể khẳng định, các đơn vị cơ sở trong quân đội đóng quân ở bất cứ địa bàn nào đều làm tốt việc kết nghĩa với cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội của địa phương, xây dựng sự đoàn kết thống nhất, quân dân một ý chí. Tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, cứu nạn, cứu hộ và bảo vệ môi trường; góp phần thực hiện có hiệu quả các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Đảng, Nhà nước, nâng cao đáng kể đời sống của Nhân dân; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, nhất là trên các địa bàn khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc, vùng có đông đồng bào tôn giáo.
Đối với nhiệm vụ phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, cứu nạn, cứu hộ, cán bộ, chiến sĩ ở đơn vị cơ sở trong quân đội luôn xác định đây là nhiệm vụ “chiến đấu” trong thời bình, luôn ở tuyến đầu, luôn đề cao ý thức trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, tiêu biểu là các hoạt động: Khắc phục hậu quả cháy rừng, mưa lũ, hạn hán, xâm nhập mặn trên các địa bàn miền Bắc, Trung, Nam; cứu nạn sập hầm Đạ Dâng (Lâm Đồng); xử lý ô nhiễm môi trường tại nhà máy Bóng đèn phích nước Rạng Đông; đất bị ô nhiễm chất độc dioxin tại sân bay Đà Nẵng; khắc phục hậu quả ô nhiễm môi trường biển tại các tỉnh miền Trung... Đặc biệt, trong phòng, chống đại dịch Covid-19, các đơn vị cơ sở trong quân đội ngày đêm chốt chặn trên toàn tuyến biên giới; tổ chức gần 200 khu cách ly, tiến hành tiêu độc, khử trùng hàng triệu kilômét vuông tại các khu vực phát sinh dịch; thành lập các bệnh viện dã chiến truyền nhiễm tiếp nhận, điều trị bệnh nhân; các tổ, đội cơ động phòng, chống dịch, tham gia bảo đảm an sinh xã hội cho Nhân dân bị ảnh hưởng. Thông qua công tác phòng, chống dịch Covid-19, Quân đội được Nhân dân tin tưởng, yêu mến; cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể địa phương đánh giá cao.
Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen. Cuộc xung đột quân sự Nga - Ukraine, tranh chấp chủ quyền biển, đảo diễn biến phức tạp, khó dự báo. Sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, phân hóa giàu nghèo; tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng vấn đề “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”, “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền”, những hạn chế, yếu kém trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội để chống phá Đảng, Nhà nước, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, “phi chính trị hóa” Quân đội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Quân đội với Nhân dân...
Tình hình đó đặt ra yêu cầu đối với cấp ủy, chỉ huy các đơn vị cơ sở trong toàn quân cần tiếp tục đẩy mạnh việc phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, quán triệt, vận dụng tốt giá trị tác phẩm “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thực hiện phong trào thi đua “Dân vận khéo”, “Đơn vị dân vận tốt”, trong đó, chú trọng thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, thường xuyên giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ ở đơn vị cơ sở thấm nhuần sâu sắc giá trị tác phẩm “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhận thức đầy đủ về vị trí, ý nghĩa của Phong trào thi đua “Dân vận khéo ”, xây dựng “Đơn vị dân vận tốt”.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị đối với việc thực hiện Phong trào thi đua “Dân vận khéo ”, xây dựng “Đơn vị dân vận tốt”, bảo đảm công tác vận động các tầng lớp nhân dân ngày càng đi vào thực chất, lấy sự hài lòng và niềm tin của nhân dân là thước đo kết quả công tác của các cấp ủy, tổ chức đảng.
Ba là, tích cực đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức, phương pháp tiến hành công tác dân vận và tổ chức linh hoạt Phong trào thi đua “Dân vận khéo ”, xây dựng “Đơn vị dân vận tốt” phù hợp với đặc điểm của đơn vị.
Bốn là, thực hiện nghiêm Quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong từng đơn vị; phát huy sức sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ trong tiến hành công tác dân vận trên từng địa bàn đóng quân.
Năm là, cán bộ, đảng viên ở đơn vị cơ sở phải thực sự gương mẫu trong cuộc sống, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”; phải “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với nhân dân”; luôn đặt lợi ích tập thể lên trên hết, kiên quyết phòng, chống chủ nghĩa cá nhân.
74 năm đã trôi qua nhưng tác phẩm “Dân vận” của Hồ Chí Minh luôn chứa đựng những giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với các đơn vị cơ sở trong quân đội; mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội cần tích cực nghiên cứu, nắm chắc tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất, mục đích, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác dân vận; lực lượng tiến hành, đối tượng của công tác dân vận; đặc biệt là tư tưởng của Người về phương pháp, cách thức tiến hành công tác dân vận.
Qua đó, góp phần khẳng định giá trị của tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung, sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng; tư tưởng đó cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị, là cơ sở lý luận để Đảng, Nhà nước ta vận dụng sáng tạo, đề ra các chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn về công tác dân vận; góp phần tăng cường mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với quần chúng nhân dân, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, góp phần “Xây dựng thế trận lòng dân, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”[6] ngày càng vững mạnh, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin