Phòng bệnh nhiễm não mô cầu

03:05, 08/05/2012

Các đơn vị trong ngành y tế đang triển khai thực hiện hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh nhiễm não mô cầu do Bộ Y tế vừa mới ban hành. Hiện nay đã có vắc xin phòng bệnh não mô cầu nhóm A, B và C. Có thể tiêm cho trẻ từ 2 tuổi trở lên, tiêm 1 liều duy nhất, tiêm nhắc lại 3 năm/lần.

Các đơn vị trong ngành y tế đang triển khai thực hiện hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh nhiễm não mô cầu do Bộ Y tế vừa mới ban hành. Hiện nay đã có vắc xin phòng bệnh não mô cầu nhóm A, B và C. Có thể tiêm cho trẻ từ 2 tuổi trở lên, tiêm 1 liều duy nhất, tiêm nhắc lại 3 năm/lần.

Tiêm phòng vắc xin uốn ván cho trẻ 1 tuổi.  Ảnh: Thanh Toàn
Tiêm phòng vắc xin uốn ván cho trẻ 1 tuổi. Ảnh: Thanh Toàn


Bệnh nhiễm não mô cầu là một bệnh truyền nhiễm gây dịch, do vi khuẩn Neisseria meningitidis gây ra. Biểu hiện lâm sàng thường gặp là viêm màng não mủ và nhiễm khuẩn huyết, có thể gây sốc dẫn đến tử vong nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Bệnh lây truyền qua đường hô hấp do hít phải các giọt nhỏ dịch tiết mũi họng bị nhiễm Neisseria meningitidis, khả năng lây truyền sẽ tăng nếu có đồng nhiễm cùng các vi rút đường hô hấp.

Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, thường gặp nhất là trẻ dưới 5 tuổi, thanh thiếu niên từ 14 - 20 tuổi, những người sống trong khu vực tập thể đông người (nhà trẻ, trường học, chung cư…) và người có cơ địa suy giảm miễn dịch. Châu Phi là nơi có các vụ dịch nhiễm não mô cầu lớn, vụ dịch năm 1996-1997 có 25.000 ca tử vong. Ở Việt Nam thỉnh thoảng vẫn có các vụ dịch lẻ tẻ tại các địa phương, riêng năm 1977 vụ dịch nhiễm não mô cầu ở Tp.HCM có 1.015 ca mắc, do vi khuẩn não mô cầu nhóm C gây ra.

Người bệnh và người lành mang vi khuẩn là nguồn chứa duy nhất, ước tính có khoảng 10%-20% dân số mang vi khuẩn não mô cầu tại hầu họng mà không có triệu chứng lâm sàng (người lành mang trùng), tỉ lệ này có thể tăng đến 40%-50%  trong các vụ dịch.

Thời kỳ ủ bệnh nhiễm não mô cầu trung bình là 4 ngày, biểu hiện nhiễm trùng rõ: Sốt cao đột ngột, có thể có rét run, ho, đau họng, mệt mỏi, nhức đầu. Các dấu hiệu màng não - não như: đau đầu dữ dội, buồn nôn, nôn, táo bón, gáy cứng (trẻ nhỏ có thể có tiêu chảy, thóp phồng và gáy mềm); rối loạn ý thức, li bì, kích thích vật vã, có thể có co giật, hôn mê. Ban xuất huyết hoại tử hình sao xuất hiện sớm và lan nhanh, thường gặp ở dưới 2 chân. Tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc nặng, nhanh chóng vào tình trạng sốc: mạch nhanh, huyết áp hạ hoặc huyết áp kẹt (hiệu số huyết áp tâm thu - tâm trương <20 mmHg), tiểu ít hoặc không tiểu được, đông máu nội mạch rải rác, suy thượng thận, suy đa tạng và có thể tử vong nhanh trong vòng 24 giờ.

Trong quá trình chẩn đoán để xác định ca bệnh, các bác sĩ cần phân biệt rõ bệnh do nhiễm não mô cầu và các bệnh khác có các triệu chứng tương tự như: bệnh do liên cầu lợn (Streptococcus suis), nhiễm khuẩn huyết do các vi khuẩn khác, viêm màng não mủ do các nguyên nhân khác, sốt xuất huyết dengue, ban xuất huyết do Schônlein - Henoch. Nguyên tắc điều trị bệnh nhiễm não mô cầu: chẩn đoán sớm ca bệnh, sử dụng kháng sinh sớm, hồi sức tích cực, cách ly bệnh nhân.

Phòng bệnh chung: Thực hiện tốt vệ sinh cá nhân, rửa tay thường xuyên bằng xà phòng, súc miệng họng bằng các dung dịch sát khuẩn mũi họng thông thường. Thực hiện tốt vệ sinh nơi ở, nơi làm việc thông thoáng. Có thể tiêm vắc xin phòng bệnh. Khi phát hiện có dấu hiệu nghi ngờ mắc bệnh cần đi khám tại các cơ sở khám chữa bệnh càng sớm càng tốt.

Phòng bệnh trong bệnh viện: Cách ly bệnh nhân, đeo khẩu trang khi tiếp xúc hoặc chăm sóc người bệnh. Quản lý và khử khuẩn đồ dùng và chất thải của bệnh nhân, dịch tiết mũi họng của bệnh nhân. Có thể sử dụng thuốc dự phòng cho nhân viên y tế và người tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân.

Phòng bệnh đặc hiệu: Tiêm phòng vắc xin, hiện nay đã có vắc xin phòng bệnh não mô cầu nhóm A, B và C. Có thể tiêm cho trẻ từ 2 tuổi trở lên, tiêm 1 liều duy nhất, tiêm nhắc lại 3 năm/lần. Dự phòng bằng thuốc theo chỉ định của bác sĩ đối với những người tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân đã được chẩn đoán chắc chắn nhiễm não mô cầu.

AN NHIÊN