Một nền văn hóa được coi là tiên tiến, chỉ khi các yếu tố mới chiếm phần chủ đạo, bên cạnh sự bổ trợ của những giá trị truyền thống, để hướng vận mệnh dân tộc đi tới tương lai, chứ không phải tuyệt đối hóa truyền thống rồi dẫn cộng đồng dân tộc ngược về dĩ vãng.
|
Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2017 H’Hen Niê luôn toát lên phong thái của người Ê Đê |
Văn hóa bắt nguồn từ đời sống lao động. Môi trường thiên nhiên, thổ nhưỡng tác động đến con người, buộc con người làm ra công cụ, tìm ra phương thức lao động, tạo nên hình thái kinh tế phù hợp với tự nhiên, đáp ứng nhu cầu ăn ở, sinh hoạt, phản vệ... Thế nên, ai cũng biết, hình thái kinh tế thay đổi, kéo theo môi trường sống thay đổi, thì văn hóa cũng sẽ biến đổi. Biến đổi luôn là nhu cầu nội tại để thích ứng với thực tiễn khách quan của thời đại mới.
Tuy nhiên, trong khi các giá trị văn hóa đương đại chưa định hình rõ nét, tạo nên hệ chuẩn mực mới, tự thân diễn trình đó làm nảy sinh những mâu thuẫn, đối kháng giữa một bên là nỗ lực bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, còn bên kia là nhu cầu đối thoại, hội nhập, phát triển. Trước sự mai một các thành tố văn hóa truyền thống, cùng sự xáo trộn những giá trị tinh thần độc đáo đã tạo nên sự phản vệ tự nhiên cố hữu trong căn tính dân tộc, nhiều người sẽ đổ lỗi do sự thay đổi, rồi kêu gọi trở về với khuôn mẫu truyền thống, coi đó là đáp án tối ưu của vấn đề. Trên thực tế, chúng ta chẳng những không thể quay ngược bánh xe lịch sử, còn rất khó tách khỏi dòng chảy thời đại. Cũng cần nói thêm, việc “đóng băng” đời sống là bất khả. Hô hào bảo tồn nguyên trạng các giá trị văn hóa truyền thống trong đời sống đương đại rất khó thực hiện, vì không thể giữ nguyên trạng đời sống, sinh cảnh... của một cộng đồng trong khi môi trường sống, quan hệ kinh tế đã thay đổi. Hơn nữa, bảo tồn và phát triển không phải là hai phạm trù đối lập mà thực chất nó là một cặp phạm trù song hành xuyên suốt, bổ trợ cho nhau. Bảo tồn là nền tảng, là một chiều kích của sự phát triển.
Thực tiễn cuộc sống và lịch sử đã chứng minh, ở bất cứ quốc gia, dân tộc nào và ở thời điểm lịch sử nào, văn hóa luôn không ngừng vận động, hòa nhập các giá trị cũ - mới, tích hợp yếu tố nội sinh - ngoại sinh, dung hòa những mâu thuẫn do sự khác biệt về sắc thái văn hóa, thiết lập nên cơ cấu văn hóa đương đại phù hợp với cộng đồng, dân tộc mình. Thử điểm qua ví dụ: Trước đây, hoa văn thổ cẩm Tây Nguyên chủ yếu là các hình kỷ hà, hoa lá, động vật, mặt trăng, mặt trời, sông suối, chày cối giã gạo... Nay, hoa văn thổ cẩm Tây Nguyên còn có cả họa tiết máy bay, xe tăng, ô tô... Như vậy, thổ cẩm Tây Nguyên đã được biểu đạt bằng một hình thức khác xưa, tuy nhiên nội hàm tình cảm bên trong nó vẫn là tấm thổ cẩm, do đôi bàn tay người phụ nữ Tây Nguyên dệt nên. Tương tự, ngày xưa, cây nêu của các tộc người Tây Nguyên được trang trí chỉ có hai màu, đen và đỏ (những màu thực vật sẵn có trong tự nhiên). Hiện nay, cây nêu đã được trang trí nhiều màu sắc hơn (do phẩm màu công nghiệp phong phú, dễ tìm), nhưng không vì thế mà tính biểu tượng của cây nêu bị mất đi, nó vẫn là totem, một cổ mẫu văn hóa đặc trưng của người bản địa Tây Nguyên. Qua đấy cho thấy quá trình mỹ cảm thị giác, sự dung nạp trực quan và nhận thức mỹ học của người Tây Nguyên đã khác xưa nhưng gien giống nòi thì bất biến.
Đặc tính cơ bản của mọi nền văn hóa là luôn vận động, dung nạp thêm những giá trị mới, tích cực, tiến bộ từ các nền văn hóa khác, làm dày thêm, phong phú thêm, đa dạng thêm vốn văn hóa nội sinh của dân tộc mình. Theo dòng lịch sử, trang phục truyền thống của người Việt là khăn xếp, áo the, áo mớ bảy, mớ ba, cùng những áo bà ba, váy đụp... - đặc trưng văn hóa nông nghiệp lúa nước. Từ khi văn minh phương Tây tràn vào nước ta, người Việt đã dung nạp các loại hình phục trang như quần Tây, áo sơ mi, veston... để phù hợp với yêu cầu của đời sống công nghiệp. Mặc nhiên ngoại hình, khổ người, dáng vóc, cách ứng xử vẫn toát lên cốt cách của người Việt. Chính vì thế, Việt kiều định cư ở châu Âu, họ sử dụng hoàn toàn trang phục, vật dụng, phương tiện, nhà cửa theo kiểu phương Tây, nhưng họ vẫn tìm cách tụ cư trong những cộng đồng nhỏ người Việt ở nước sở tại, cốt cách của người Việt vẫn được giữ nguyên, luôn được trân trọng, tự hào.
Rõ ràng, việc tiếp nhận những chức năng văn hóa mới và đào thải những thành tố văn hóa đã lỗi thời sẽ làm nảy sinh những sắc thái mới, từ đó định hình nên bản sắc văn hóa, phù hợp với bối cảnh phát triển mới. Do vậy, tuyệt đối hóa truyền thống, cũng có nghĩa đang tạo ra cái nhìn mất cân đối của chỉnh thể tiên tiến - đậm đà bản sắc dân tộc, như cương lĩnh của Đảng về văn hóa đã xác định: “Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Một di sản dù vàng son và đồ sộ đến đâu cũng không bao giờ là đủ. Từ thực tiễn, chúng ta thấy rằng, hài hòa các thành tố văn hóa tiên tiến với các thành tố văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc là lý tưởng nhất. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần minh định: đây không phải là phép cộng của thành tố văn hóa tiên tiến và thành tố văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Mối quan hệ đó cần được xem như một chỉnh thể tương giao, đối ứng phù hợp.
Sự chuyển mình của nền văn hóa Việt Nam cần tìm ra cách ứng xử phù hợp trong bối cảnh phát triển mới, xây dựng con người Việt Nam với phẩm chất, năng lực tiên tiến và bản lĩnh, đủ sức đương đầu với những thách thức mới, đưa đất nước phát triển phồn vinh.
TRIỀU KA
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin