Bảo tồn phải gắn liền với khai thác, phát huy vốn văn hóa truyền thống 

UÔNG THÁI BIỂU (thực hiện) 00:08, 14/03/2024

Làm việc tại Trường Cao đẳng Đà Lạt với vai trò giảng viên Ngữ văn, nhà nghiên cứu Đặng Trọng Hộ cũng là một trong số rất ít người Kinh tham gia viết giáo trình và giảng dạy tiếng K’Ho, Mạ cho cán bộ, công chức làm việc tại vùng đồng bào các dân tộc thiểu số Lâm Đồng. Đồng thời, với niềm đam mê, tâm huyết và sự hiểu biết vốn văn hóa truyền thống Tây Nguyên, trong nhiều năm qua, Đặng Trọng Hộ từng chủ trì một số công trình nghiên cứu có giá trị và tham luận tại nhiều cuộc hội thảo khoa học. Mới đây, chúng tôi có cuộc trao đổi cùng ông…

Nhà nghiên cứu Đặng Trọng Hộ (thứ ba từ trái qua) trong một chuyến điền dã 
tại vùng đồng bào K’Ho
Nhà nghiên cứu Đặng Trọng Hộ (thứ ba từ trái qua) trong một chuyến điền dã tại vùng đồng bào K’Ho

 

- Phóng viên: Thưa ông, muốn bảo tồn và phát huy hệ thống di sản văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, theo tôi, trước hết phải nhận diện một cách khách quan và đầy đủ các giá trị cần được lưu giữ và trao truyền…

Nhà nghiên cứu Đặng Trọng Hộ
Nhà nghiên cứu Đặng Trọng Hộ

- Nhà nghiên cứu ĐẶNG TRỌNG HỘ: Đúng vậy. Trên cơ sở nhận diện mới chọn lọc được những tinh hoa văn hóa để bảo tồn, phát huy và xây dựng những giá trị văn hóa mới phục vụ sự phát triển bền vững. Khi tìm hiểu, nghiên cứu, nhận diện một vùng văn hóa hoặc một nền văn hóa nào đó cần dựa vào hai bộ công cụ quan trọng: Hệ tọa độ ba chiều (chủ thể văn hóa, không gian văn hóa, thời gian văn hóa) và các đặc trưng văn hóa (tính hệ thống, tính giá trị, tính nhân sinh và tính lịch sử). Sự nghiên cứu chuyên sâu này giúp cho việc nhận diện được bản sắc văn hóa tộc người. Từ đó, tránh được việc nói đến văn hóa Tây Nguyên không nói bản sắc chung chung mà phải là bản sắc văn hóa tộc người. Tuy nhiên, nhận diện và khái quát được bản sắc văn hóa tộc người là vấn đề rất khó khăn nhưng phải bắt đầu từ những dấu hiệu bao gồm: Giá trị tinh thần, tồn tại tương đối lâu dài, có tác dụng chi phối các đặc điểm khác, có khả năng khu biệt nền văn hóa này với nền văn hóa khác… 

- Ông có quá trình nghiên cứu khá toàn diện về di sản văn hóa cổ truyền Tây Nguyên, trong đó K’Ho là sắc tộc mà ông có sự hiểu biết sâu nhất. Từ trường hợp K’Ho, ông hãy phát biểu ý kiến của mình về thực trạng đáng lo ngại về sự biến đổi theo chiều hướng mai một bản sắc văn hóa tộc người?

Bất kỳ nền văn hóa nào cũng trải qua quá trình giao lưu, hội nhập có thể là theo cách “cưỡng bức” hoặc “tự nguyện”. Vì vậy cần đặt những yếu tố truyền thống trên cơ sở hồi cố, truy nguyên và mô tả trong xã hội hiện đại để thấy rõ sự biến đổi có thể theo chiều hướng tiếp biến hoặc theo chiều hướng mai một bản sắc. Nếu theo cách nhìn này, chúng ta có thể luận giải về một số phương diện cơ bản của văn hóa truyền thống của tộc người K’Ho trong xã hội đương đại, như sau:

Tín ngưỡng đa thần của đồng bào gắn liền với chuỗi nghi lễ nông nghiệp; từ đó hình thành một hệ thống lễ hội: từ lễ cúng Thần Đất, Thần Núi… đến cầu mùa, mừng lúa mới, bỏ mả... Hiện nay, điều kiện tự nhiên bị phá vỡ, tập quán mưu sinh thay đổi cùng với sự chi phối của các tôn giáo, các lễ hội truyền thống hầu như vắng bóng. Thay vào đó là các lễ hội “mới” do chính quyền tổ chức. Ở đó, vẫn có nghi lễ cầu thần, hiến tế, diễn tấu cồng chiêng nhưng ý nghĩa và giá trị tinh thần đã được chuyển dịch.

Ðiều hành xã hội bằng luật tục trong thiết chế cổ truyền là một biểu hiện độc đáo của người K’Ho nói riêng và của các dân tộc bản địa Tây Nguyên nói chung. Khi chưa có luật pháp, công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội chính là luật tục (tập quán pháp). Ðó là một hệ thống văn bản truyền miệng bằng văn vần chế định tất cả mọi phương diện của đời sống xã hội và được cả cộng đồng triệt để tuân thủ. Hiện nay, nhiều nội dung của luật tục mang tính hủ tục và có độ vênh, thậm chí trái với luật pháp nhưng vẫn có nhiều nội dung tích cực cần được khai thác.

Nghệ thuật diễn xướng và nhạc cụ cổ truyền của các tộc người có nhiều biến đổi. Đặc biệt, nghệ thuật diễn tấu cồng chiêng cổ truyền vốn được tiến hành rất nghiêm ngặt từ các bản tấu, nghệ nhân, không gian, hoàn cảnh đến chức năng cơ bản là tế lễ nhưng nay những quy chuẩn mang giá trị truyền thống đã bị mai một nhiều, đặc biệt là mất đi không gian thiêng vốn dĩ. Hát kể sử thi, dân ca, dân nhạc, dân vũ vẫn được duy trì nhưng thiếu linh hồn vì tâm lý, ý thức cộng đồng và không gian diễn xướng thay đổi.

Kiến trúc dân gian đặc sắc của đồng bào K’Ho chính là nhà dài. Tuy nhiên hiện nay loại hình kiến trúc này đã dần vắng bóng và thay vào đó là những thiết chế văn hóa hiện đại, mà nhà văn hóa cộng đồng là một thí dụ. Ðiều đáng quan tâm là những thiết chế văn hóa đó lại xa rời truyền thống văn hóa tộc người từ vị trí, kiến trúc, trang trí đến công năng.

- Ông từng là chủ nhiệm của hai đề tài nghiên cứu khoa học khá quan trọng: “Phát huy mặt tích cực của luật tục trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng để xây dựng thôn buôn văn hóa” và “Nghiên cứu thực trạng Nghề thủ công của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, đề xuất giải pháp phát triển”. Xuất phát từ hai đề tài nghiên cứu này, ông có thể diễn giải về quá trình phai nhạt dẫn đến mai một kho tàng tri thức bản địa như nội dung mà chúng ta đang bàn?  

Kết quả nghiên cứu của hai đề tài trên đã cung cấp cho các cấp chính quyền những luận cứ khoa học quan trọng nhằm phát huy mặt tích cực của luật tục trong xã hội hiện đại và phát triển nghề thủ công nhưng trên hết vẫn là mục đích bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc K’Ho, Mạ, Churu và một số dân tộc bản địa khác. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng đã chỉ ra thực trạng đáng lo ngại: Luật tục vẫn còn nhiều mặt tích cực trong quan hệ dân sự như duy trì văn hóa truyền thống, tranh chấp, đánh nhau, trộm cắp vặt, từ hôn, ngoại tình…Xử lý bằng luật tục có kèm theo hình phạt nhưng luôn hướng đến sự hòa giải và đoàn kết. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, mặt tích cực đó khó có thể phát huy vì: Thiết chế cổ truyền đã bị phá vỡ, vị thế thủ lĩnh tinh thần và vai trò phán xử của già làng đã mờ nhạt, những câu luật tục bằng văn vần truyền miệng đã trở nên khó hiểu và xa lạ đối với thế hệ trẻ; luật pháp Nhà nước đã được chế định và chi phối tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nghề thủ công truyền thống của đồng bào chủ yếu là dệt thổ cẩm, ủ rượu cần, đan lát, rèn, đúc nhẫn bạc, làm gốm... Sản phẩm của các nghề này chứa một hàm lượng văn hóa tộc người rất cao nhưng hiện nay đang tồn tại lay lắt, thậm chí có một số nghề đã mất hẳn. Sự mai một đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu do sản phẩm của nghề thủ công của đồng bào chưa phải là hàng hóa (chỉ để đổi chác trong buôn làng), nguồn nguyên liệu khan hiếm, kỹ thuật chế tác giản đơn, ý thức học nghề và truyền nghề không cao, sự cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp…

- Những nguyên nhân chính dẫn đến sự mai một văn hóa truyền thống Tây Nguyên, và hậu quả của nó, thưa ông?

Nguyên nhân cơ bản nhất vẫn là sự chi phối của quy luật phát triển của lịch sử - văn hóa; sự thay đổi của môi trường tự nhiên, xã hội; vấn đề bản lĩnh văn hóa trong việc xử lý các yếu tố ngoại lai và trách nhiệm của các cơ quan quản lý bởi cách làm hời hợt và áp đặt. Sự biến đổi cũng dẫn đến ba nguy cơ sau: Làm biến mất bản sắc văn hóa tộc người; con người Tây Nguyên sẽ mất điểm tựa văn hóa từ đó dẫn đến xa rời cộng đồng, mất phương hướng tự điều chỉnh và tự giáo dục; phá vỡ tính ổn định và phát triển bền vững của xã hội.

- Tiếng nói là biểu hiện sinh động và mạnh mẽ nhất của bản sắc văn hóa tộc người, nhưng hiện nay, ở cộng đồng các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, hiện tượng quên dần tiếng mẹ đẻ đang diễn ra khá phổ biến ở lớp trẻ. Ông phân tích rõ thêm về những hậu quả của hiện tượng đáng lo ngại này?

Biểu hiện rõ nhất là vốn từ tiếng mẹ đẻ của họ nghèo nàn nên thường phải mượn từ tiếng Việt thay thế. Theo ghi nhận của tôi, còn rất ít bạn trẻ nhớ và sử dụng được những từ thuộc về văn hóa cổ truyền. Nguyên nhân có thể do môi trường, điều kiện giao tiếp và thực hành tiếng mẹ đẻ của thế hệ trẻ ngày càng ít đi, từ đó, họ hình thành tâm lý ngại dùng. Ðiều này càng làm cho họ phai nhạt niềm tự hào dân tộc, dần mất đi tâm hồn và tính cách dân tộc, xa rời những giá trị cơ bản của văn hóa tộc người...

- Ông là một trong số ít người Kinh có nhiều năm dạy tiếng K’Ho, Mạ cho người Kinh và cả người các dân tộc thiểu số tại địa phương; đối với công việc này, ông có thể định lượng và định tính về kết quả, hiệu quả của nó?   

Tôi làm công việc này từ năm 2005, khi tỉnh Lâm Đồng triển khai dạy tiếng K’Ho, Mạ và Churu cho cán bộ, công chức đang công tác trong vùng dân tộc. Học viên chủ yếu là người Kinh. Thanh âm các ngôn ngữ đó được cất lên từ học viên cho dù còn ngọng nghịu nhưng đối với tôi có sức hấp dẫn kỳ lạ. Tôi khích lệ họ học để giao tiếp với đồng bào, yêu thêm con người và văn hóa của họ. Đa số học viên đều có thể giao tiếp ở mức độ đơn giản, thông thường; một số người có thể sử dụng thành thạo tiếng nói đồng bào trong giao tiếp, thậm chí trong nghiên cứu văn hóa.

- Tôi từng nghe ông kể, có một vài sinh viên người dân tộc K’Ho đề nghị ông dạy thêm cho họ ngôn ngữ mẹ đẻ của chính họ. Ông có suy nghĩ gì về hiện tượng “lạ” này?

Tôi không cho đó là hiện tượng “lạ” mà là hiện tượng tất yếu của một lớp người biết yêu tiếng và tha thiết bảo tồn tiếng mẹ đẻ. Như trên đã trao đổi, thế hệ trẻ bị mất dần không gian giao tiếp và điều kiện thực hành nên họ lúng túng, khô cứng và thiếu linh hồn khi dùng tiếng mẹ đẻ. Bên cạnh đó, đại đa số thế hệ trẻ không biết viết, không biết đọc, tức là mù chữ nên quá trình quên tiếng mẹ đẻ càng diễn ra một cách nhanh chóng hơn. Không ai dạy cho họ cả. Điều đáng buồn là tôi chưa kịp dạy (miễn phí) thì hai sinh viên kia đã ra trường. Tôi vẫn nung nấu ý định dạy tiếng mẹ đẻ cho gần 50 sinh viên người K’Ho, Mạ khi họ đã đề đạt nguyện vọng thiêng liêng ấy.

- Từ góc độ một nhà nghiên cứu, ông nhìn nhận là hiện nay chúng ta đang thực hiện các giải pháp bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Tây Nguyên có đúng hướng, khoa học và hiệu quả không? Cá nhân ông có đề xuất gì?  

Theo tôi, vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Tây Nguyên hiện nay đang đi đúng hướng, tức là đang thực hiện đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chương trình, đề án đã và đang được tiến hành. Nhưng đánh giá một cách khách quan là hiệu quả chưa thực sự cao. Theo tôi, cần giải quyết một số vấn đề quan trọng như sau: Thứ nhất, các công trình nghiên cứu với mục đích bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống cần gắn với việc nghiên cứu kinh tế - xã hội đương đại. Thứ hai, khi chuyển giao kết quả nghiên cứu vào thực tiễn đời sống xã hội cần tiếp tục có sự tư vấn của các nhà khoa học. Thứ ba, tránh triển khai các đề án mang tính chủ quan, áp đặt, thiếu khoa học. Thứ tư, cần bảo tồn có chọn lọc, trọng tâm, trọng điểm; bảo tồn phải gắn liền với khai thác, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống để phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội, tức là bảo tồn động, bảo tồn trong sự phát triển. Thứ năm, các cơ quan Nhà nước chỉ nên đóng vai trò định hướng, quản lý và huy động các nguồn lực phục vụ cho việc nghiên cứu và phục dựng các giá trị cổ truyền, tránh những sự can thiệp phi chuyên môn… 

- Xin cảm ơn ông về nội dung cuộc trò chuyện này!