Rừng Tơrlang trên cao nguyên Lang Biang được nhắc nhớ trong những câu hát kể yal yau, những khúc lah long tình tự: “Hãy đi cùng em nơi rừng Tơrlang/ Hái măng rừng Tơrlao…”. Đó là lời hẹn hò lãng mạn của sơn nữ K’Ho đến tuổi cập kê với chàng trai mà cô gái đã thầm ưng bụng. Xin mượn lời hò hẹn ý nhị này để kể chuyện “mùa trao vòng tay hẹn ước” trên miền đất huyền ảo Nam Tây Nguyên.
Thực hiện nghi thức trong lễ cưới của người K’Ho |
Theo truyền thống của những tộc người có chế độ mẫu hệ ở Tây Nguyên, khi mùa màng thu hoạch xong, lễ đậy nắp bồ lúa đã làm rồi, nắng đã vàng trên những đồi nương…, các cô gái sẽ đề đạt chuyện “bắt chồng” với cha mẹ và cậu, để soạn lễ đi “xin cái xà gạc” về cho con gái. “Mùa trao vòng tay hẹn ước” thường diễn ra vào mùa khô, mùa gió thổi qua những triền thung ràn rạt quỳ vàng, những đồi cỏ hồng đuôi chồn đong đưa mời gọi. Nam Tây Nguyên vào mùa lãng mạn và đẹp nhất trong năm. Mùa hoa lá, cỏ cây và con người đều rạo rực, hứng khởi. Bên sườn đồi cha cất lời của núi, bên hiên nhà mẹ hát điệu yal yau, gái trai buông lời lah long tình tự. Cung thanh, cung trầm đong đưa trao gửi, cầu mong và mời gọi.
Điệu sáo gọi mời |
Quanh chuyện tục “bắt chồng”, tôi đã nghe nhiều dị bản. Trong chiều nắng lạnh, qua những cánh rừng nguyên sinh dưới chân dãy Bidoup bồng bềnh mây trắng, tôi may mắn đến buôn Đưng K’si, xã Đạ Chais, huyện Lạc Dương, Lâm Đồng khi có nghi lễ “tơm bau” (cưới xin) của gái trai K’Ho. “Lễ cưới hỏi của sơn nữ K’Năm và Sắk Kly. Phục dựng thôi”, già làng Bon Tô Sa Nga, chủ lễ, thông tin. Dù là “cưới diễn”, nhưng là dịp may hiếm có giúp tôi biết thêm nghi lễ cưới hỏi truyền thống của người K’Ho bản địa.
Sơn nữ K’Ho |
Mùa này, một nhành hoa dại bên cung đường đất đỏ cũng đủ để bao tâm hồn trở thành mặc khách, thi nhân. Ở sân nhà truyền thống, tiếng cồng, tiếng chiêng đã rậm rực; tiếng kèn m’buốt (k’buốt, rơkel…) tỉ tê mời gọi… Cây nêu linh thiêng được dựng lên, bếp lửa đã sẵn sàng để mời gọi du khách, dân làng vào không gian lễ cưới truyền thống. Tôi nhìn quanh, rất nhiều du khách nước ngoài tỏ ra ngạc nhiên, thích thú. Trong nhà truyền thống tại buôn Đưng K’si, dù đã qua mấy chục mùa rẫy, “cái rìu đã bọc da”, nhưng Phó Chủ tịch UBND huyện Lạc Dương Cil Poh vẫn bồi hồi khi dự lễ “tơm bau”. Bởi, khi còn là chàng trai “có giá” trong buôn, ông đã từng được rủ “đi hái rau krồng bên núi Tơrlang” và đưa tay đón nhận chiếc vòng cầu hôn. Ông bảo: “Người K’Ho mình theo chế độ mẫu hệ, sơn nữ “bắt chồng”, đàn ông thường sống bên nhà vợ. Tự do về hôn nhân, cho nên khi cô gái thích chàng trai nào đó thì chủ động nói với cha mẹ nhờ người mai mối có tài ăn nói, cùng với ông cậu đến nhà chàng trai ngỏ ý. Có khi phải nhiều lần thuyết phục mới được…”.
Cô dâu và chú rể trao nhau chiếc vòng thiêng gắn kết trọn đời |
Già Sa Nga kể thêm: “Mỗi lần như vậy như một cuộc đấu trí, qua tiếp chuyện, nói lối giữa hai gia đình, khi nhà trai đã ưng bụng thì việc làm lễ ra mắt, dạm hỏi, lễ nhấc chân (pồ jơng) và sắm lễ vật đám cưới đều do nhà gái lo liệu”.
Không gian bập bùng trong tiếng cồng, tiếng chiêng lan xa lên tận đỉnh núi. Điệu kèn m’buốt, câu lah long giao duyên tình tự, gọi mời: Tôi đi tìm bông hoa prăc/ Tôi đi hái bông hoa krài/ Tôi đi tìm bông hoa giữa đồng... Bà K’Brang, người hát dân ca K’Ho nổi tiếng khắp vùng cho biết: “Xưa, bên bếp lửa trước nhà sàn dài, hoặc những hôm lên rẫy, đi hái rau rừng, sau những lời lah long thắm thiết, những chàng trai, cô gái đã ưng bụng nhau, không ngại ngần trao vòng thề hẹn. Lah long là lời nói êm ái, tình tứ; thường để trai gái trao lời hẹn ước”. Luật tục K’Ho có câu rằng: Làm bẫy phải hỏi thần núi/ Ăn rừng phải hỏi bon (buôn) làng/ Tìm vợ, tìm chồng phải hỏi mẹ, cha. Trước khi muốn lấy chồng, tìm vợ phải nhờ đến các vị già làng, trưởng dòng họ, là những người có uy tín và trách nhiệm của buôn làng.
Mặt trời đã ngả về phía núi xa. Lễ chạm ngõ bắt đầu. Cha mẹ, cậu và người mai mối cùng con gái muốn bắt chồng kéo sang nhà trai. Lễ vật gồm nhòng kẹ (sợi cườm), kòng tê (vòng đồng), nếu nhà gái khá giả có thể trao vòng bạc; crộ (tô)… Khi gần đến nhà trai, nhà gái thường ngân nga những câu bóng gió, tạm dịch: Tôi đi ngắm ngọn Lang Biang nho nhỏ/ Tôi đi ngắm ngọn Lang Biang trai tơ; hay Tôi đi tìm cái cuốc để giãy cỏ rẫy/ Tôi đi tìm kiếm cái chài bắt cá/ Tôi đi tìm kiếm cái xà gạc để phát rẫy…
Sau khi đón nhà gái vào nhà, cuộc “thương lượng” của đôi bên bắt đầu, cũng bằng những câu bóng gió rất ý nhị và văn hóa. Cuộc “chạm ngõ” là cuộc trò chuyện trao đổi, nhưng ở nhiều đám còn diễn ra hát đối đáp ý nhị giữa hai họ, cốt là để nhà trai đồng ý cho nhà gái “bắt chồng”. Nếu lễ vật nhà trai đưa ra vượt quá khả năng của nhà gái, thì xin khất nợ và khi nào có điều kiện thì trả. Theo già Sa Nga, lễ hỏi diễn ra ở nhà trai và thường tổ chức vào chiều tối, ban đêm, vì nhà gái muốn tránh tiếng, nếu chẳng may việc “ngỏ lời” không thành. Sau khi cuộc “đối đáp”, “thương lượng” hoàn thành, “chiêng ché đã trao”, hai bên đã nhất trí cho đôi trẻ đến với nhau và chàng trai chấp nhận chiếc vòng cầu hôn thì lễ cưới được định ngày.
Trước ngày diễn ra lễ cưới như đã định, người K’Ho thường tổ chức lễ nhấc chân (pồ jơng). Lúc này, họ hàng bên trai ấn định của hồi môn cho con trai, thường là chiêng, ché, trâu, bò... Tiếp đến, gia đình hai bên thống nhất ngày giờ rước rể. Đến ngày đã định, chú rể cùng với gia đình, bạn bè và người mai mối kéo đến nhà gái dự lễ rước rể. Nhà gái mời nhà trai uống rượu và hát xướng. Sau đó là nghi thức cúng Yàng, đôi trai gái chính thức “cái rìu đã bọc da”. Tiếp theo, đám cưới lớn (tam lir) sẽ diễn ra, nếu gia đình nhà gái có điều kiện, không thì khất nợ với buôn làng đến khi có điều kiện sẽ tổ chức.
Mê mải tìm hiểu tục cưới xin, khi bài chiêng chào mừng quý khách vang lên, tôi mới trở lại dõi theo đám cưới của K’Năm và Sắk Kly. Sau thủ tục của hai gia đình, lễ vật thách cưới đã thống nhất, đôi trai gái đeo kòng tê cho nhau và cùng uống rượu cần trước sự chứng kiến của hai gia đình, buôn làng… Điệu yal yau dặn dò của mẹ, bà ngoại chàng trai tỉ tê, tâm sự, đại ý nhắc nhở đôi trẻ phải yêu thương bền chặt, giữ gìn hạnh phúc gia đình: Cha mẹ cho phép hai con được ưng nhau, lấy nhau/ Phải nhớ giữ nhau, thương nhau/ Chăm cho con từ tóc đen đến tóc trắng/ Con nhớ lời cha mẹ, cậu dặn… Tiếng chiêng cồng và tiếng kèn giao hòa, ngân nga, trầm bổng; những câu hát giao duyên tình tứ cất lên trong men say đại ngàn, kéo dài thâu đêm suốt sáng…
Trong cuốn Miền đất huyền ảo, nhà dân tộc học người Pháp Dam Bo (tức Jacques Dournes cho rằng: “Nói chung, người Tây Nguyên lấy nhau trong tộc người của mình, thông thường ngay trong làng mình. Nhưng cũng có khi họ đi tìm vợ ở một tộc người bên cạnh, ở lại luôn phía vợ hay đưa vợ về làng mình, tùy theo tập tục của chế độ mẫu hệ… Các cuộc hôn nhân giữa những người khác tộc đó, tuân theo sự gần gũi nhau vốn có giữa tộc người này và tộc người nọ”. Luật tục K’Ho cấm quan hệ hôn nhân giữa những người bà con cùng họ trong cùng một địa phương; giữa con chú, con bác và con dì, nếu vi phạm sẽ bị buôn làng xử phạt nặng.
Tục “bắt chồng” hiện vẫn phổ biến ở các buôn làng Nam Tây Nguyên trong đời sống lứa đôi, do đồng bào K’Ho, Churu, M’Nông… vẫn giữ chế độ mẫu hệ. Điều cốt lõi trong chuyện đi tìm “vòng tay cầu hôn” vẫn là tự do yêu đương, lễ dạm hỏi, lễ cưới và chàng trai về sống bên nhà vợ. Trường hợp đặc biệt, cô dâu vẫn có thể cư trú bên nhà chồng. Nhưng con cái vẫn mang họ mẹ. Ngày nay, làn gió mới trong đời sống văn hóa đã ùa về trên những buôn làng. Những tục lệ truyền thống tốt đẹp được gìn giữ và tái hiện ở một số buôn, làng văn hóa, đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, trải nghiệm của du khách.
Chia tay buôn làng người K’Ho trong chiều trôi rất khẽ. Điệu sáo em gọi anh, gọi anh vẫn thiết tha, mời gọi và mùa hò hẹn nơi rừng Tơrlang, Tơrlao; mùa đi tìm vòng tay cầu hôn đã đến.
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin