Chúng tôi vừa rời Hà Nội vào đến thành phố cao nguyên Đà Lạt thì bạn bè và con gái đều nhắn tin vào là Hà Nội đột ngột mưa và lạnh. Mở mạng internet, còn biết thủ đô bị mưa gió làm đổ mất 12 cây xanh trên các phố. Dưới mưa, đường phố kẹt xe hàng giờ…
Trại viết của Hội Nhà văn Việt Nam mở 15 ngày ở nhà sáng tác Đà Lạt lần này lại gặp thời tiết đẹp và khí hậu mát mẻ khác hẳn thủ đô. Chúng tôi có thật nhiều chuyện vui xen chút chuyện buồn. Vui vì chúng tôi, các nhà văn khắp mọi miền đất nước lại có dịp gặp gỡ, trao đổi, tán dóc, vừa đi tham quan cảnh đẹp và các di tích lịch sử của thành phố sương mù, vừa cùng vui chơi, ca hát, ăn uống sau những giờ cặm cụi với những trang viết mới. Nhà văn Lê Đăng Kháng ở Đồng Nai mấy ngày cuối trại còn liên tục gọi điện về nhà xuất bản hỏi xem họ đã đọc bản thảo anh vừa gửi chưa?...)
Về mặt viết lách, thế là ổn. Nhưng các trại sáng tác mở ra còn là dịp để các nhà văn nhà thơ đi đến những vùng đất mới, tiếp xúc với con người và phong tục của địa phương, quen biết và hiểu nhau hơn. Chúng tôi đã đi thăm nhiều cảnh đẹp của thành phố ngàn hoa. Tôi đã đến đây nhiều lần, vào nhiều tháng khác nhau trong năm, nhưng lần nào cũng thấy hoa nở khắp nơi. Đường cỏ trước và sau nhà sáng tác bạt ngàn hoa bìm tím, hàng rào trước các ngôi nhà nhỏ xinh hoặc các biệt thự lộng lẫy lúc nào cũng đầy hoa lan tiêu, hoa giấy, hoa tường vi, hoa mimoza… đủ màu, khi thì êm mát, lúc lại rực rỡ, khi khiêm tốn, lúc kiêu sa… Đó là Đà Lạt mơ màng mà kiêu hãnh, một Đà Lạt có sức hấp dẫn muôn người. Trong thiền viện có hai khu vực riêng biệt dành cho các ni (sư nữ) và tăng (sư nam). Đến trước nơi ở của tăng, cổng khóa, nhà thơ trại trưởng Nguyễn Thị Mai nhất định nhờ nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm chụp cho một tấm ảnh nàng đang “xăm xăm mở khóa” muốn vào bên trong! Nhà thơ trưởng trại của chúng tôi là một người chu đáo, tinh tế nhưng cũng nghịch ngầm. Sau khi chúng tôi đến thăm vườn tượng của nghệ nhân Phạm Văn Hạng và được ông cho xem 3 cuốn thơ mà ông đã bỏ ra 6 cây vàng để đúc thành các trang thơ bằng đồng có cả chữ Việt, chữ Anh và chữ Hán cùng vườn tượng với rất nhiều phụ nữ trong các tư thế khác nhau.
Các bữa ăn của trại thường rất vui, có hôm nhà thơ Y Phương bỗng ngạc nhiên:
- Sao hôm nay vắng thế nhỉ?
Thì ra từ hôm đến, đây là bữa ăn đầu tiên thiếu các bạn văn chương của Đà Lạt hoặc các bạn từ nơi xa nghe tin đã đến thăm và tán dóc rất vui cùng chúng tôi. Đó là các nhà văn nhà thơ Phạm Quốc Ca, Lê Công, Bùi Minh Quốc, Phạm Quang Trung, Vương Tùng Cương, Thanh Liễu của Đà Lạt, Nguyễn Thánh Ngã, KhalyChàm, Nguyễn Tấn On, Nguyên Kiến Thọ, Khuất Thanh Chiểu… của các vùng miền khác. Đặc điểm của các bạn viết là thích gặp gỡ, tặng nhau những tập thơ mới, đọc cho nhau nghe những gì vừa viết và rất muốn nghe mọi người khen chê, góp ý cho từng câu từng chữ… Không khí đó của trại sáng tác thật đầm ấm và đầy sáng tạo. Và tôi đã được các bạn đọc cho nghe những bài thơ mới viết đêm qua, đầy cảm hứng. Nhà thơ Nguyên Vũ Tiềm gửi qua email những câu thơ rất Đà Lạt:
Vừa đủ lạnh để khơi nguồn máu nóng
Vừa đủ êm để cảm xúc dâng trào
Vừa đủ lạnh để Prenn dội thác
Vừa đủ chiều để vi vút thông reo…
Ở Đà Lạt, chúng tôi gặp nhà thơ Dư Thị Hoàn, người đã mua 1000m2 đất trong rừng và đang cùng bạn bè phật tử xây các “am’’ nhỏ trong một thung lũng hoang sơ của thành phố hoa để cùng nhau tập thiền. Chị đang ăn chay nên nhất định không đến ngồi cùng chúng tôi trong các bữa “ăn mặn”, mà chỉ đến đọc thơ và khoe lợi ích của thiền. Có lẽ thấy nhà thơ như trẻ ra, khỏe mạnh, cười sảng khóai nên nhà thơ Bùi Kim Anh, một người đang rất bận rộn với một đàn cháu nội ngoại cũng bỗng muốn thiền như Dư Thị Hoàn. Đang đêm, chị thức tôi dậy để nghe bài thơ chị vừa hoàn thành trong…mơ:
Ôm trong đời chữ giá như
Trở đêm thức lại tương tư cảnh thiền
Ôm trong mộng chữ bình yên
Cởi ra buộc lại ưu phiền chẳng hay
Ngả xuống vạt cỏ mà say
Câu thơ nhẹ tiếng, lời bay lên trời…
Khi chúng tôi cùng đi trên lối thông vắng vẻ và trầm mặc vào dinh 1 của Bảo Đại, nhà văn Huỳnh Thị Thu Trang tâm sự:
_Bà nội em có họ với hoàng hậu Nam Phương chị ạ. Khi nào có dịp về Tiền Giang, em sẽ đưa chị thăm Gò Công quê em, cũng là quê của Nam Phương. Mỗi lần đến Đà Lạt, em đều một mình đi lại con đường này, bên trái kia là nhà thờ Bảo Đại xây riêng cho hoàng hậu đến cầu kinh. Em có viết một truyện lịch sử đặt tên là “Dấu giày trên cỏ’’ nhắc đến Bà…
Tôi nhìn Thu Trang và nói vui để mong xóa nét buồn hoài niệm trên gương mặt nhà văn:
_Con gái Gò Công chắc đều đẹp người đẹp nết như em và bà Nam Phương, đúng không?
Hầu hết nhà văn trong trại viết đều có “biệt danh” ví dụ chúng tôi gọi nhà văn Nguyễn Hiệp ở Bình Thuận là “Hiệp sĩ” vì anh rất nhiệt tình giúp đỡ các nhà văn nữ, nào là chụp ảnh, mà thường là rất đẹp, xách giúp túi, cầm hộ áo rét khi trời bỗng nóng lên. Nhà văn Lò Cao Nhum thì có biệt danh là “Vệ sĩ”.Anh là người đã cùng nhà thơ Nguyễn Tấn Việt đi từ Hà nội vào Đà Lạt, chẳng may anh Việt không hợp khí hậu cao nguyên nên bị ốm, anh phải đưa vào bệnh viện cấp cứu, thức đêm trông nom anh Việt và thường xuyên vào thăm anh khi các con anh đã đến. Đây là một nét buồn bất ngờ của trại. Nhà thơ Trần Hoàng Vy của Tây Ninh làm thơ chân dung các nhà văn dự trại, trong đó khen ngợi Lò Cao Nhum:
Cháo bưng, nước rót quên mình
Bạn thơ, thôi cũng bởi tình tri âm…
Và anh đùa trêu nhà thơ Nguyễn Thị Ngọc Hà:
Ngọc Hà giải yếm đứt phăng
Van “Đừng gọi chị bằng em”, chị nhờ…
Nhà văn Lê Đình Trường, phó chủ tịch Hội văn nghệ “đất mũi” cũng được Trần Hoàng Vy khắc họa:
Đến từ xứ sở rạch, kinh
Trang văn đặc sắc quê mình, Cà Mau.
Nhà văn Trần Quốc Toàn, một cây viết cho thiếu nhi của thành phố Hồ Chí Minh đến dự trại muộn, nhưng anh đã làm không khí trại viết vui nhộn hẳn vì bữa nào cũng nói cười rổn rảng, gọi các cháu bé đến tặng sách và yêu cầu các cháu đọc thơ. Điều bất ngờ là các cháu bé con anh chị em cán bộ của nhà sáng tác cũng thuộc thơ của vài người bọn tôi (đã đưa vào sách giáo khoa) khiến ai cũng rất vui. Chúng tôi gọi anh là “Toàn trẻ con!”. Còn nhà văn Vũ Đức Nghĩa từ An Giang đến thì chúng tôi gọi là anh Hai Lúa, vì anh kể chuyện anh đã bị bọn “ăn bay” của Sài Gòn cướp mất chiếc áo khoác anh vắt ở giỏ xe khi đi dạo phố! Đến trại thì anh cứ cầm chùm thìa khóa các cháu lễ tân đưa, nặng đến 2kg, mở hết phòng nọ đến phòng kia, xuống cả tầng hầm mà không thể nhớ các cháu đã đưa tận tay anh chiếc thìa khóa của phòng nào…
Một hôm chúng tôi đi dạo phố, thấy những ngôi biệt thự của Đà Lạt quá xinh đẹp, tường bao có hoa leo, vườn trồng cây bơ đang trĩu quả bên cạnh cây bưởi đang độ nở hoa cùng các khóm hoa tươi tắn đủ màu, có nhà lại treo biển bán.Tôi bèn lấy di động gọi cho số điện thoại ghi trên giấy bán, nói là chúng tôi muốn mua nhà. Chủ nhân mừng rỡ:
-Chị từ Hà Nội vào phải không ạ? Chị muốn xem nhà không để tôi bảo cháu đến mở cửa.
Nhà thơ Nguyễn Thị Mai dành lấy máy, vẫn giọng Hà Nội chuẩn:
-Nhưng chúng tôi muốn biết giá đã, xem có đủ tiền không. Bao nhiêu chị?
-Đúng 7 tỷ chị ạ
-Thôi, 6 tỷ 8 được không?
Nhà thơ Bùi Kim Anh cố tình nói vào máy:
-Sao trả vội thế? Để xem nhà đã chứ!...
Đầu bên kia, chủ nhà bỗng rất nhiệt tình:
-Tôi đang ở Sài Gòn, chiều tôi sẽ về gặp gia đình nhé. Các chị cứ vào xem nhà vườn thoải mái..
Hôm ấy về, chúng tôi cười khen nhau đóng kịch giỏi. Bùi Kim Anh còn ngậm ngùi:
-Mình mà có con cháu ở Sài Gòn thì mình mua nhà ở đây thật ấy chứ. Khí hậu và phong cảnh thật tuyệt vời…
Vâng, thật tuyệt vời con người và cảnh vật xinh tươi của thành phố ngàn hoa Đà Lạt. Cảm ơn Hội nhà văn, cảm ơn các cháu và anh chị em cán bộ công nhân viên của nhà sáng tác đã rất chu đáo với chúng tôi, săn sóc từng bữa ăn,chăm lo từng giấc ngủ để chúng tôi có những ngày thanh thản, những ngày làm việc hết mình. Chắc chắn sẽ có nhiều trang viết đáng đọc từ trại viết này. Đó là không kể mỗi chúng tôi đều có thêm nhiều bạn mới, những người bạn văn chương đã đọc nhau từ lâu mà nay mới gặp rồi thân thiết…