Tôi đã tham gia trại sáng tác văn học của ngành văn hóa từ những năm 70 của thế kỉ trước. Các kiểu trại biển, trại núi, trại hồ, trại phố thị… đều đã từng có mặt; thế mà vẫn ham lại có mặt là vì cứ mỗi lẫn được là trại viên, túi khôn như đầy hơn.
Tôi đã tham gia trại sáng tác văn học của ngành văn hóa từ những năm 70 của thế kỉ trước. Các kiểu trại biển, trại núi, trại hồ, trại phố thị… đều đã từng có mặt; thế mà vẫn ham lại có mặt là vì cứ mỗi lẫn được là trại viên, túi khôn như đầy hơn.
1.Tôi ngộ ra điều này từ thời nhà thơ Bế Kiến Quốc chưa về báo Văn Nghệ, còn là cán bộ phòng sáng tác sở văn hóa Hà Sơn Bình, cùng phòng với thi sĩ “nhân văn” Trần Lê Văn, thi sĩ tập kết Hoàng Tố Nguyên, thi sỹ “lưu dụng” Vân Long… Họ điều tôi - anh giáo làng đang dạy mãi trên Bất Bạt quê Tản Đả xuống dự trại sáng tác chạy bom Mỹ tại một xã vùng ven thị xã Hà Đông quê lụa. Sướng quá! Được nghe thầy Xuân Diệu (đạp xe từ Hà Nội vào) hướng dẫn sáng tác. Hướng dẫn ngay trong nhà dân mà chúng tôi ở đậu. Học trong mái ngói ba gian vừa là nhà thờ, vừa là phòng khách. Thầy Diệu đăng đàn từ bộ tràng kỉ tre giữa nhà, bên chai bia Trúc Bạch và trưởng phòng sáng tác Phượng Vũ, còn học trò chúng tôi ngồi xếp bằng trên hai phản ngựa hai bên, vốn là giường ngủ. Tôi và Nguyễn Tấn Việt ngày ấy đều đã tốt nghiệp đại học (tôi sư phạm, Việt thì Anh văn), nhưng chúng tôi vỡ lòng bài lao động nhà văn như thế. Sau lý thuyết là thực hành, chúng tôi được đưa lên “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” trên Hòa Bình để theo dấu Quang Dũng tìm thơ nay trên miền đề tài xưa. Gần 50 năm kiên định trại viên, có thế nói, mỗi trại là một nấc thang cao hơn, đưa tôi vào nghề văn bút này. Tôi được học thầy Xuân Sách ở trại biển Vũng Tàu, học thầy Trần Hoài Dương ở trại hồ Tây Quảng Bá, học thầy Dương Duy Ngữ ở trại hồ trên núi Đại Lải…và có đi trại mới càng tin học thầy không tày học bạn. Một chức năng quan trọng mà các trại sáng tác đã thực hiện tốt là cung cấp bạn văn cho người làm văn. Và sau đó là việc, mở cửa để chúng tôi đi xa hơn vào tổ quốc mình. Tôi đã đi Bình Châu tắm suối nước nóng và đã vào Z30D3 Bình Thuận ngắm Việt Nam cẩm tú - có từ đền Hùng trên núi, Tháp Rùa ngoài hồ, tòa Thị chính Sài Gòn thời thuộc Pháp … từ trại sáng tác Vũng Tàu, đã tới biệt phủ Thành Chương nơi vua Thụy Điển lưu bút tích, từ trại Quảng Bá và lần này tôi tới huyện mới Đạ Tẻh.
2.Tôi nhận được giấy mời của Hội nhà văn Việt Nam do nhà thơ - Phó chủ tịch hội Nguyễn Quang Thiều ký, mời đi dự trại sáng tác tại Đà Lạt từ 15 tới 29/3/2011. Xuống xe, còn đang ngỡ ngàng trước hai tòa biệt thự tráng lệ kiến trúc bán cổ điển lối Pháp, vừa mới xây xong trong khuân viên nhà sáng tác Đà Lạt số 2 đường Yên Thế thì một lão ông tóc bạc, đứng đó tự bao giờ, tiến đến trước mặt tôi: Thầy Toàn – tôi ngẩn người ngạc nhiên. Chưa kịp nhớ ra đây là ai thì người ấy đã nói: -Thầy không nhớ hết trò nhưng trò phải nhớ thầy. Chắc thầy nhớ bạn Trần Hòa Bình cùng trường, đồng môn với em. Em là học sinh lớp 10C, trường cấp 3 Quảng Oai, huyện Ba Vì. Thầy đã đến trường em cùng thầy Thế Mạc và nhà thơ Bế Kiến Quốc năm ấy, tới nói chuyện thơ trong nhà cô Vân thầy Phạm Tiến Duật. Chắc thầy quên rồi!
- Cảm ơn! Anh vào Hội Nhà văn đợt nào mà hai ta được gặp nhau ở đây?
- Thưa chưa! Em có con gái là phóng viên Báo Lâm Đồng. Em thường kể về thầy cho nó nghe. Hôm qua, nó được xem danh sách trại viên, thấy có tên thầy, liền báo. Em từ Đạ Tẻh lên Đà Lạt chào thầy!
Trưa ấy, lão ông học trò mời tôi cùng những bạn văn Lâm Đồng của anh dùng cơm trưa ở quán đặc sản đường Hùng Vương, quán thịt dê. Ngoài tôi còn có nhà giáo Nguyễn Thế Lực cựu giáo viên cao đẳng sư phạm Đà Lạt và tiến sỹ lý luận văn học – nhà văn Phạm Quang Trung dạy Đại học Đà Lạt, đang rất rất “máu” trong vụ Hội Thề. Thầy Trung chỉ vào người học trò tóc bạc của tôi:
- Cái ông Nguyễn Thanh Hương này, không học tôi nhưng biết nhau 10 năm nay, lúc nào cũng gọi tôi là thầy. Ngại quá!
- Sao lại ngại, thầy đào tạo cử nhân, còn em, về hưu rồi vẫn chỉ trung cấp quèn. Gọi là thầy chẳng đúng sao! Thầy Lực em đây trước khi về dạy văn trường cấp 3 Tùng Thiện huyện Ba Vì đã từng dạy văn cấp 2 xã Phú Châu, huyện Ba Vì quê của em. Thầy Lực cũng không dạy em tiết nào, nhưng thơ thầy em thuộc, tủ sách 300 cuốn của thầy em ngốn trong năm 66, 67, 68 là hết. Thầy tin người mê sách nên cho mượn luôn xe đạp đi chơi. Hồi ấy xe Tiệp Khắc phavơrít của thầy là loại sang trọng, chỉ sau pơgiô của Pháp, cả phố núi Ba Vì chỉ có vài chiếc.
Thì ra, cả ba ông giáo chúng tôi, chẳng ai từng “gõ đầu trẻ” Nguyễn Thanh Hương, nhưng đều được làm thầy anh học trò vừa mới là thủ khoa (môn truyện ngắn) một cuộc thi văn chương. Nguyễn Thanh Hương tham gia cuộc thi phóng sự, bút ký, truyện ngắn do Bộ giáo dục và đào tạo, Hội nhà văn Việt Nam, Hội nhà báo Việt Nam, Công đoàn giáo dục, NXB Giáo dục phối hợp tổ chức phát động từ tháng 4 -2009, sau gần 2 năm đã có 2.135 tác giả ở 64 tỉnh thành trong cả nước với hơn 2.200 tác phẩm dự thi. Tác giả Nguyễn Thanh Hương - đã đoạt giải nhì (không giải nhất) với tác phẩm “Con mụ nhà quê” (ký bút danh Hoàng Mai Khuyên). Vốn là cán bộ văn hóa huyện Đạ Tẻh, đã hưu trí, Nguyễn Thanh Hương mới chỉ mơ làm nhà văn từ 2001 nhưng đã từng tham gia trại viết (người lớn) từ năm 13 tuổi ở Hà Tây và tính đến hết 2010 đã được xuất bản 6 tiểu thuyết từ các cuộc thi, (không phải bỏ tiền in quyển nào) (Chuyện lớp 10B NXB Kim Đồng 2002, Cao nguyên yên ả NXB Công An Nhân Dân 2008, Ngày 81 oan nghiệt NXB CAND 2009, Rừng khát NXB CAND 2009, Dấu lặng trên tuyến lửa NXB Quân Đội Nhân Dân 2010, Khuôn mặt của tội ác NXB CAND 2010); đã viết hơn 200 truyện ngắn (được in 44 truyện trên các báo Trung ương, địa phương). Hiện còn 13 tiểu thuyết đã đánh máy xong. Lại thêm, từ 1992 đến nay, Đài PTTH Lâm Đồng, mỗi tháng phát sóng 1 câu chuyện truyền thanh, thời lượng 30 phút do ông viết kịch bản. Riêng 2010 là năm bội thu của Nguyễn Thanh Hương, ngoài giải thưởng nói trên, ông còn được giải của Hội Liên hiệp VHNT tặng tiểu thuyết Rừng khát và giải tặng người có nhiều tác phẩm dự thi ( 8 truyện dài) của NXB Công An Nhân dân; tiền thưởng tổng cộng 35 triệu đồng. Học trò của tôi thật là một bạn viết đáng nể!
Nhưng đáng nể hơn con số kia là 7 huy chương, và kỉ niệm chương mà các ngành trao tặng “cây viết trẻ” này: vì giai cấp nông dân, vì sự nghiệo giáo dục, vì thế hệ trẻ, vì sự nghiệp văn hoá thông tin, vì sự nghiệp thể dục thể thao Việt Nam, Vì sự nghiệp Chữ thập đỏ Việt Nam, Vì sự nghiệm dân số gia đình và trẻ em…
3.Vốn thích khám phá các vùng đất lạ, tôi theo Nguyễn Thanh Hương về quê mới Đạ Tẻh của ông. Hai thầy trò đi xe đò Cát Tiên vượt hơn 175 km. Chuyến xe chật cứng người Kinh và người Thượng. Băng trên cùng, chỉ 2 ghế mà có lúc lèn tới 5… hành khách. Những bà mẹ, những cô gái cao nguyên thật đẹp, da mật nắng soi, mắt biếc, lông mi cong. Muốn tìm một di gan Esmeranda của Vich-To Huy - Gô lạc tới Việt Nam chắc phải tìm trên đất này. Trên xe Nguyễn Thanh Hương cho biết, “Đạ” là nước, “Tẻh” là nóng. Đạ Tẻh là tên con sông chạy dọc trung tâm huyện. Vùng đất này xưa kia thuộc chiến khu miền Đông Nam Bộ, là nơi cư trú lâu đời của người Mạ. Sau 1975, hàng vạn thanh niên ở Hà Tây, Huế được điều động vào đây khai phá để làm nên một huyện mới có tên trên bản đồ tổ quốc. Đến Đạ Tẻh, Nguyễn Thanh Hương lại chở tôi bằng xe máy đi thăm hai “hồ trên núi” Đạ Tẻh, Đạ Hàm, thăm thác Hơi, thác Xuân Đài, thác 21. Thác và hồ ở Đạ Tẻh sẽ là điểm du lịch lý tưởng sau này, nếu có đầu tư thích hợp. Từ thác tới thác, hồ tới hồ là mênh mông những cánh đồng lúa mà xưa là lau sậy, là rừng nguyên sinh. Giữa nhiều thửa ruộng, nhiều vườn cây xanh tốt còn sót lại những gốc cây rất to, mấy người ôm không hết. Có lẽ vì sự biển dâu này mà, dù là huyện vùng sâu, phố huyện Đạ Tẻh vẫn có những cửa hàng bán gỗ lũa mỹ nghệ. Nghe nói nghệ nhân Bùi Quốc Khánh, có tác phẩm rễ cây, đặt tên là “ngọn lửa” kêu bán giá bốn cây vàng, tôi đòi Nguyễn Thanh Hương dẫn tới… hỏi chuyện, để được chiêm ngưỡng dấu tích đại ngàn, tiếc là ông Khánh vắng nhà, danh mộc kia còn bí mật. Nhưng không tìm mà gặp là dấu tích hướng Nam của lịch sử dân tộc ta, của riêng tôi trên đường từ quê lụa tới quê lúa. Gặp ngay trên mỗi bước đường. Ở Đạ Tẻh có gần như đủ các tên huyện ngoài Hà Tây xưa (nay là Hà Nội) quê nội, quê ngoại của tôi. Có xã Quốc Oai, xã Mỹ Đức, xã Hà Đông… có thôn Thạch Thất, thôn Ứng Hòa…thành ra đi thăm đất mới mà người Hà Nội lại có cảm giác gặp lại quê mình…
Đạ Tẻh đang cuối mùa khô. Nắng vàng thơm, vàng ngọt như mật ong rừng Tây Nguyên. Ve kêu râm ran ở hàng xà cừ cổ thụ quanh trường Dân tộc nội trú. Nhà Thanh Hương ở cuối con đường mang tên nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, nhìn sang sân trường. Ve kêu cả ban đêm. Không ngủ được, tôi lần ra phòng khách thì đã thấy Thanh Hương một mình dưới đèn ngồi viết. Ông chủ nhà nhường cho tôi một góc bàn làm việc của mình. Tôi mở laptop, hai thầy trò cùng thức cho tới sáng.
Bút ký: TRẦN QUỐC TOÀN (Trại sáng tác Đà Lạt tháng 3-2011)