Làng gốm Chu Ru xưa và nay

05:03, 28/03/2012

Tôi tìm về bon Krăng Gọ, xã Próh, huyện Đơn Dương - một vùng đất tụ cư của bộ tộc Chu Ru, nơi đây còn lưu giữ nghề thủ công truyền thống gắn bó máu thịt hàng ngàn năm. “Krăng” là tên ông chủ khai sinh vùng đất, còn “Gọ” trong tiếng bản địa là chỉ nghề làm nồi đất.

Tôi tìm về bon Krăng Gọ, xã Próh, huyện Đơn Dương - một vùng đất tụ cư của bộ tộc Chu Ru, nơi đây còn lưu giữ nghề thủ công truyền thống gắn bó máu thịt hàng ngàn năm. “Krăng” là tên ông chủ khai sinh vùng đất, còn “Gọ” trong tiếng bản địa là chỉ nghề làm nồi đất.

Hồn đất - hồn người
 

Nghệ nhân Ma Phương bên cạnh Bơnhăũn.
Nghệ nhân Ma Phương bên cạnh Bơnhăũn.

Chẳng ai biết cụ thể nghề gốm ở bon Krăng Gọ có tự bao giờ, và ai là người đầu tiên khai sinh nghề gốm ở làng này. Kể cả các già làng (tha plei) khi được hỏi cũng chỉ nói: lớn lên đã thấy đôi tay trần của bà, của mẹ nhào nặn nên những chiếc Gọrồng, Gọdăm, Abu, Gọglah, Bơlo, Karơ, Karơyơng, Bơnhăũn Gọgrẹt… và nhiều vật dụng khác. Rồi cứ thế, nghề gốm được truyền cho đời con, đời cháu một cách tự nhiên. Số già làng khác, lại bảo: Thời rất xa xưa, người Chu Ru vốn là một nhóm con cháu thân thuộc của người Chăm, đã từng sinh sống ở vùng duyên hải Trung bộ nước ta. Nhưng khi các vua chúa Chăm gây chiến với người Khơmer và người Việt, để phục vụ cho các cuộc chiến chinh ấy, tầng lớp quý tộc Chăm đã tiến hành bóc lột những người nông dân lao động đồng tộc của mình hết sức thậm tệ. Lại thêm nạn bắt phu, bắt lính triền miên làm cho đời sống của người nông dân lao động Chăm hết sức khổ cực, điêu đứng. Vì muốn thoát khỏi ách áp bức bóc lột nặng nề đó, một số người buộc lòng phải đòi bỏ quê hương bản xứ, đi tìm vùng đất mới. Và chính những người di dân đầu tiên này đã sinh ra bộ tộc Chu Ru ngày nay. “Chu Ru” có nghĩa là chiếm đất - Là do người Mạ, người K’Ho, những cư dân bản địa gốc Nam Tây Nguyên dùng để chỉ một bộ tộc người Chăm ly hương từ vùng duyên hải Trung bộ lên miền Thượng. Những người ly hương này đã mang theo nghề làm ruộng và nghề làm đồ gốm của người Chăm. Tuy nhiên, giả thiết này đã gặp phải sự phản ứng quyết liệt của các nghệ nhân lành nghề nhất: “Đây là nghề của bon Krăng Gọ mình mà! Không phải của người Hời đâu!”. - Nghệ nhân Ma Pia, Ma Bi, Ma Huệ, Ma Phương, Ma Sinh nhất loạt lên tiếng. Thế là tôi đành gác lại chuyện nguồn gốc làng gốm Chu Ru, để chuyển sang tìm hiểu quy trình làm gốm qua lời kể và qua thao tác của các bậc nghệ nhân này.
     
Ngày xưa, vào mùa khô, từ tháng 12 năm trước đến hết tháng 3 năm sau, cũng là thời điểm nông nhàn, tất cả các gia đình trong Krăng Gọ đều nổi lửa đốt gốm. Đàn ông thì tất bật đi gùi đất, kiếm củi, thắp lò; còn phụ nữ thì gò lưng nhào đất nặn gốm để đổi chiêng, ché, thổ cẩm với người Mạ, người K’Ho. Hồi đó, vì gốm Chu Ru nổi tiếng khắp vùng nên nhiều thương đoàn người Lào, người Campuchia cũng dùng voi chở lúa, ngô, đồ sắt, vòng cườm… vượt núi, băng rừng sang Krăng Gọ đổi gốm về dùng. Krăng Gọ trở thành làng nghề duy nhất cung cấp sản phẩm gốm cho toàn bộ cư dân khu vực Nam Tây Nguyên - Lâm Đồng. Cách thức trao đổi, mua bán cũng rất đơn giản, chỉ mang tính ước lượng tương đối, chứ không nhất thiết phải cân nhắc chi li, nếu là lúa gạo, cứ đong đầy sản phẩm gốm, rồi bên lấy gạo, bên lấy gốm… Trong quy trình làm sản phẩm gốm, phụ nữ chuyên trách khâu chọn đất tốt ở Bơnun K’Lơr (núi đất), đàn ông thì gùi đất về bon. Khắp làng trên bon dưới rộn rã tiếng sàng sảy, tiếng đãi đất, phơi đất, tiếng nhào đất và nặn gốm.

Suối Đạ Yờng chật ních người đi kín nước. Ngọn lửa nung gốm bập bùng thức suốt đêm. Bên cạnh đó là cái không khí đậm đặc lễ nghi văn hóa cùng ma thuật, như: Trước khi đi lấy đất nguyên liệu, bao giờ nghệ nhân Chu Ru cũng phải chuẩn bị lễ vật, gồm: một ché rượu cần, một con gà hoặc lợn (heo), một chiếc khăn thổ cẩm (Su Xreng) để xin phép chủ làng, thần đất. Nếu một gia đình không đủ tiền để sắm những lễ vật ấy thì nhiều hộ gia đình góp chung vào với nhau. Miễn có lễ vật là được. Và việc lấy đất chỉ được thực hiện khi cảm thấy trong người sạch sẽ, tâm hồn thảnh thơi. Bởi theo quan niệm của người Chu Ru, nếu không có nghi lễ này, các sản phẩm gốm làm ra sẽ xấu hoặc bị nứt vỡ nhiều do thần linh quở trách.
     
Tạo tác


Kỹ thuật chế tác đồ gốm của đồng bào Chu Ru ở Krăng Gọ khá thô giản, nghệ nhân không tạo hình sản phẩm bởi bàn xoay mà dựa hoàn toàn vào đôi tay. Ngay cả dụng cụ chế tác cũng hết sức giản đơn: một chiếc vòng bằng tre hoặc thiếc, gọi là Kơnur; một miếng Tơrnạp (gỗ nhỏ); một quả Pơlaicanh (trám rừng); một miếng Suté (vải); một Mơpal (tấm gỗ để kê); một cái Kơdồng dùng để nhồi đất.
     
Đất sét sau khi khai thác về được phơi khô, giã nhỏ bằng chày; dùng rổ tre sàng kỹ nhằm loại bỏ tạp chất, chỉ giữ lại phần bột đất mịn. Kế đến, mang bột đất này nhào trộn với nước thật nhuyễn, đến mức dẻo mịn, ủ thêm vài ngày cho đất chín, rồi mới vê thành từng khối dài, to cỡ cổ tay hoặc bắp ngô. Tiếp theo, nghệ nhân, thường là nữ, sẽ đặt khối đất vừa nhào kỹ lên bàn gỗ cố định hình và bắt đầu be chạch lượn tròn theo kiểu “làm bằng tay xoay bằng mông”. Hai tay vê dần cho đất cao lên và mỏng ra. Tay trái đỡ bên trong, tay phải cầm Tơrnạp đập đập bên ngoài sao cho thật cân xứng. Cùng với đập là cắt, gọt nhằm tạo độ dày theo ý muốn, hoặc véo đất nặn thêm chi tiết, dấp nước rồi dán vào vật như núm, nắp, vòi, quai… Cứ thế cho đến khi hình dáng sản phẩm hoàn thành. Gốm mới chuốt đưa ra phơi nắng, dùng Kơnur để làm nhẵn sản phẩm cả bên trong lẫn mặt ngoài. Cuối cùng là việc đánh bóng sản phẩm gốm bằng Suté và Pơlaicanh. Motif hoa văn thường là các đường vạch chạy song song, được nghệ nhân dùng đầu thanh tre ấn liên tiếp vào thân gốm, tạo nên những nét chìm sâu đều đặn như một thứ trữ tình nguyên thủy mê man.
     
Tạo hình xong, đem cốt gốm phơi cho thật khô, chỉnh sửa lại lần cuối, rồi sắp xếp các sản phẩm theo thứ tự từ trong ra ngoài giữa một khoảng đất trống. Các nồi đều úp sấp. Nồi bé ở trong, nồi lớn ở ngoài nhưng không được để sát quá, tránh tình trạng khi nung gốm có thể dính vào nhau vì nóng. Rồi chất củi khô, rơm rạ xung quanh, nổi lửa lên và đốt. Đốt từ chập tối đến quá nửa đêm một chút thì mẻ gốm hoàn tất.
     
Bằng đôi tay tài hoa, người thợ gốm miền cao đã khiến tôi phải bàng hoàng kinh ngạc. Dưới bàn tay điều khiển của họ, hòn đất biến hóa như trong huyền thoại. Mỗi sản phẩm là một tác phẩm nghệ thuật đích thực, ẩn chứa nhiều giá trị nhân văn sâu sắc. Sản phẩm gốm Chu Ru là những vật dụng thông thường như cái Bơlo - nấu bồ kết cho phụ nữ gội đầu.; Karơ - bát ăn cơm và uống rượu, Gọrồng - nồi lớn miệng rộng đựng nước hoặc nấu cơm cho vài chục người ăn; Gọdăm - nồi trung miệng vừa dùng để nấu cơm cho vài người ăn; Abu - nồi đội nước; Gọglah - nồi nấu canh miệng rộng; Karơyơng - vừa là bát uống rượu vừa là nắp đậy; rồi cái Bơnhăũn - kiềng bếp; hay như Gọkrẹt dùng để đựng cơm, canh…

Âm vang

“Xưa kia làng gốm Chu Ru mình vui lắm!”. - Nghệ nhân Ma Bi vừa nhồi đất vừa nói với tôi như thế. - “Nhà nào cũng có nồi đất, người nào cũng biết làm nồi đất”. “Còn bây giờ?”. - Nghe tôi hỏi, người phụ nữ suốt đời gắn mình với nghề gốm ắng đi, lâu sau mới chậm rãi trả lời: “Tụi nhỏ bây giờ không còn yêu gốm, không còn thích dùng đồ gốm nữa, nên chẳng đứa nào chịu theo học cách làm nghề gốm cả. Chúng nó quên hẳn hồn của ông bà rồi”.
     
Qua tìm hiểu thực tế, tôi cũng nhận thấy hầu hết những người trẻ tuổi ở đây đều xa lạ với nghề truyền thống của ông bà tiên tổ. Thay vì làm gốm, họ dần chuyển qua nghề trồng rau, trồng đậu hoặc đi làm thuê cho các nhà vườn. Đó cũng là điều dễ hiểu. Vì sản phẩm gốm làm ra không tìm được nơi tiêu thụ. Chỉ còn lại đâu đó một vài nghệ nhân hoài cổ, yêu nghề như Ma Phương, Ma Sinh, Ma Bi, Ma Pia vẫn thi thoảng lên núi lấy đất về làm gốm cho đỡ nhớ, và sản phẩm làm ra cũng chỉ mang tặng người thân, bè bạn chứ tuyệt nhiên không có buôn bán gì. Nghệ nhân Ma Phương bùi ngùi chia sẻ: “Nhiều chị em trong làng vẫn còn yêu nghề, nhớ nghề lắm, chỉ mong tìm được hướng đi để tiếp tục làm nghề”.
     
Ngắm đồ gốm Chu Ru, tôi thầm cảm phục bàn tay khéo léo, nhạy cảm thẩm mỹ và tài năng, các nghệ nhân thủ công đã thổi sức sống vào những khối đất vô tri vô giác, biến đất mẹ hiền hòa thành hầu hết những vật dụng trong nhà, giải quyết nhu cầu thiết yếu trong nền kinh tế tự cung tự cấp. Trên suốt tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài người, nguyên liệu nọ thay thế nguyên liệu kia, đồ đá đồ đất, đồ đồng đồ sắt, đồ nhôm đồ nhựa rồi inox, thủy tinh cao cấp…
     
Làng gốm Chu Ru hôm nay không còn mở mang phát triển nữa, và con em Chu Ru kiếm sống bằng những việc khác cũng là phù hợp với thực trạng lịch sử. Nhưng chính vì thế mà đồ gốm Chu Ru càng trở nên quý hiếm, như một sản phẩm văn hóa, ghi nhận thời kỳ hoàng kim của làng gốm Chu Ru, và sống mãi trong lịch sử ngành gốm Việt Nam. Dẫu biết vậy, tôi vẫn có một niềm tin sắt đá rằng, với truyền thống khéo tay hay nghề, với đức tính chăm chỉ, cần cù, với đầu óc thông minh sáng tạo, người thợ gốm Chu Ru sẽ không bao giờ bỏ nghề. Tôi tin nghề làm gốm ở Krăng Gọ tồn tại mãi và tiếp nối dài lâu đến muôn đời. Bởi vẫn còn đó những con người giàu nhiệt huyết như Ma Pia, Ma Huệ, Ma Phương, Ma Sinh, Ma Bi luôn biết giữ gìn và trân quý ngành nghề tiên tổ, luôn biết khắc phục mọi nghịch cảnh khó khăn, luôn trau dồi tài nghệ để tạo ra những sản phẩm ngày càng hoàn thiện. Đấy là lý do để tôi hy vọng. Và mong sao, hy vọng của tôi không trở thành vô vọng!
     
Tôi đành chia tay Ma Sinh, Ma Bi, Ma Phương, Ma Huệ - những con người tận trung của làng gốm Chu Ru để trở về Đà Lạt khi ngoài trời vẫn còn mưa nặng hạt, và không khỏi chạnh lòng xen lẫn những âu lo, một thứ âu lo mơ hồ. Đã xa rồi cái thời khắp làng trên bon dưới rộn vang tiếng sàng sảy, tiếng đãi đất, phơi đất, tiếng nhào đất và nặn gốm. Đã xa rồi những bóng người ra suối kín nước. Đã xa rồi những ngọn lửa thức cùng dân bon nung gốm suốt đêm. Lẽ nào!…
 

Trịnh Chu