Đời không bao giờ hết chuyện, chuyện cô Hường đã ly thân nhưng cô vẫn bị chồng quậy phá chưa được mấy “bà Tám” thôi bàn ra tán vào thì lại nảy sinh ra chuyện nhà bà Năm...
Đời không bao giờ hết chuyện, chuyện cô Hường đã ly thân nhưng cô vẫn bị chồng quậy phá chưa được mấy “bà Tám” thôi bàn ra tán vào thì lại nảy sinh ra chuyện nhà bà Năm. Bà Năm và cô Hường là cư dân của xóm Ngã Ba, một xóm nhỏ ngoại ô thành phố. Quả thật ở đây trước kia là một ngã ba, nhưng nay thì đã rành rành là một ngã tư được Nhà nước xây đường bê tông nhựa nóng đàng hoàng. Dân hai bên đường theo đó cất nhà, những ngôi nhà ván mái lợp tôn hay nhà xây bằng những viên “ất lô” được đập ra để nhường chỗ cho những ngôi nhà đủ kiểu. Nhà ông Ngãi xây theo kiểu biệt thự Pháp với hai tầng lầu, bà Chín đất mặt tiền không rộng nên lại xây nhà kiểu Mỹ, ngôi nhà hình ống cố che trên đầu mình một mái ngói đỏ au, cứ y như chàng thanh niên tinh nghịch đội mũ con nít vậy! Nhà bà Năm lọt thỏm giữa hai nhà ông Ngãi và bà Chín. Đó là một ngôi nhà ván còn sót lại của thời quá khứ, mái tôn đã ngả màu thời gian thành một màu nâu đỏ, vách ván đôi tấm đã long, chiều chiều gió lùa vào phe phẩy tấm màn vải hoa che chiếc giường bà Năm ngủ mỗi đêm.
Minh họa: Ngọc Minh |
Bà Năm người Quy Nhơn, theo chồng vào xóm nhỏ này đã mấy chục năm. Trước 75, chị Năm Hẹ gặp anh chàng binh nhì lính sư đoàn 23 tên Hạnh, anh Hạnh người xóm Ngã Ba này. Chị Năm mê tiếng hát của Hạnh mỗi khi Hạnh ghé vào tiệm may của chị sau những trận càn. Bài hát não lòng lính chiến xa nhà khiến chị thương cảm, chị không sao chịu đựng được những hợp âm luyến láy như rót vào tai chị “mẹ ơi hoa cúc hoa mai nở rồi, đời con, đời con ….”. Chị theo anh về xóm nhỏ khi Quy Nhơn “thất thủ”, anh “tan hàng” bỏ chạy trước mấy thằng sĩ quan cứ hô “tử thủ”! Cha mẹ chị không còn, chiến tranh đã cướp mất người thân của chị, chị chỉ kịp nói với bà cô họ mấy câu trước khi theo Hạnh chất va ly lên chiếc xe đò già cỗi để đến Nha Trang. Chị và anh động phòng trong một ngôi nhà hoang vắng ở Phan Rang, lúc đó người từ Đà Lạt chạy xuống đông không thể tả, đủ thứ sắc lính trong một thành phố hỗn quân hỗn quan trước khi bên giải phóng tiếp quản thị xã. Hạnh không theo người ta chạy vô Phan Thiết để về Sài Gòn, Hạnh đưa chị về Đà Lạt trên một chiếc 67 lượm dọc đường. Gương mặt Hạnh tươi roi rói, chắc là mừng vì vừa có vợ, vừa thoát khỏi cảnh lính chiến xa nhà chết khi nào không hay còn đời thì đầy hoang vắng như bài hát điệu boléro “con biết bây giờ mẹ chờ tin con, khi thấy mai vàng nở đầy trên nương, năm trước con hẹn đầu xuân sẽ về, nay én bay đầy trước ngõ…”.
Chị Năm cực lắm trong những ngày làm dâu xứ lạ. Ba mẹ Hạnh là người Huế vô Ngã Ba làm ăn đã mấy chục năm. Ông trồng rau mà người trong này hay gọi là trồng “la ghim”, còn bà mở một quán bún bò Huế, nghề bà học lỏm từ người mẹ chồng khi mới cưới. Tuy học lỏm nhưng bà phải phá cách cho hợp với dân trong này, nghĩa là bà nêm ít ruốc hơn một chút, nhiều đường hơn một chút, và nhất là phải có xà lách cô rôn trộn với rau thơm xắt nhuyễn để ăn kèm! Chị Năm không được như mẹ chồng, chị không học lỏm nghề nấu bún, không phải chị dở mà vì thời đó chuyện lương thực đâu có dư dả để làm bún nấu món ăn chơi? Nghĩa là quán bún bà Bảy Khương đóng cửa, ai cũng phải đi lao động sản xuất hết, không ai được làm tiểu thương cả, trừ mấy người già. Chị Năm theo chồng đi kinh tế mới tận Tà Hine, chị là một người chịu cực quen nên không ngại chuyện khai hoang ruộng để làm lúa. Nhưng anh Hạnh thì không. Hạnh vừa đủ lớn, thi rớt tú tài phần thứ nhất thì bị tóm đi lính liền. Đúng ra Hạnh được đi hạ sĩ quan, học mấy tháng ở quân trường Đồng Đế ra đeo lon trung sĩ, nhưng Hạnh ngán súng ống, anh chỉ mê đàn địch, nên trốn chui trốn nhủi ở nhà. Vô phúc, hôm người cậu làm đám cưới cho con gái, Hạnh phải xuống Trại Mát phụ làm đám. Khi tiệc cưới vừa tàn, Hạnh lò dò đi ra bến xe tìm chiếc xe đò màu vàng chạy tuyến Đà Lạt - Trại Mát đậu cạnh Nhà Ga xe lửa thì mấy thằng cảnh sát áo trắng tới. Chúng nó lịch sự giơ tay chào trước khi hỏi giấy. Làm gì có giấy “động viên tại chỗ”, vậy là Hạnh được tống lên chiếc GMC chờ sẵn đưa Hạnh và mấy người đồng cảnh ngộ xuống quân trường Quang Trung học ba tháng rồi tống thẳng ra Sư đoàn 23 bộ binh làm thằng lính “tà lọt” ông Tiểu đoàn trưởng.
Hạnh không quen lao động nên giục chị Năm bỏ vùng kinh tế mới trở về. Chị Năm suy nghĩ lung lắm trước khi xuôi tai nghe theo lời Hạnh. Đàn ông nông nổi giếng khơi, đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu! Đúng vậy, nếu chị Năm Hẹ không nghe lời anh Hạnh, chắc giờ này chị đã có một cơ ngơi vững chắc ở Tà Hine rồi. Nhưng đời không bao giờ hết chuyện, chị theo Hạnh một lần nữa trở về Ngã Ba, không hộ khẩu, không vườn tược, không công ăn việc làm. Bí miết rồi sẽ thông thôi. Chị Năm theo người ta đi buôn nước mắm, cái thứ gia vị không thể thiếu khi nấu ăn trong bếp Việt. Thời kỳ đó khó đi buôn lắm, ai đem được vài can nước mắm lên Ngã Ba bán thì lời vô cùng. Chị Năm làm quen với một tay tài xế chạy chuyến Phan Rang, anh giấu giùm mấy can nước mắm của chị dưới đáy xe, cạnh lò than nóng hổi, xe chạy than mà, mấy ông thuế vụ đâu để ý đến lò than khét lẹt đó làm gì! Chị bỏ nước mắm cho mấy quán quanh vùng, nước mắm chị ai cũng phải dùng bởi không ai có thể thiếu thứ nước gia vị màu vàng mật, mặn mòi chứa bên trong vị ngọt của chất cá tươi nguyên!
Đời không bao giờ hết chuyện. Hạnh về lại xóm Ngã Ba, anh như chim xổ lồng, chao ơi cây đàn ghi ta lâu không đàn, bàn tay Hạnh trở nên lóng ngóng nhưng âm vang thì da diết quá. Đàn mãi cũng không ra tiền, Hạnh nghe lời bạn tìm mua một con ngựa làm nghề xe kéo. Buổi sáng lúc 5 giờ, Hạnh đóng ngựa vào càng, đánh xe đi vào những nhà vườn chở thuê rau ra chợ. Hạnh không để ý đến người bán, người mua, anh chỉ biết nhận tiền công rồi trở về cùng chiến hữu bày trò hát xướng, tất nhiên rượu sẽ làm hưng phấn những bài ca? Lúc ấy, chị Năm bôn ba tận mấy lò mắm ở Phan Rang, chị canh chừng mấy ông thuế vụ nghỉ ngơi là xốc mấy can nước mắm vọt qua Trạm thuế, thần kinh căng thẳng chứ đâu thoải mái hát hò như Hạnh? Hạnh đâu biết vợ cực khổ, anh chàng cứ bàn tán chuyện ngựa. Chắc anh mê ngựa hơn mê vợ, chỉ có Trời mới biết? Hạnh bỏ nghiệp xe ngựa thồ hàng, khi những chiếc xe lam đã thay thế sức kéo của súc vật. Nhưng cái nghiệp ngựa Hạnh không bỏ được, anh quay qua làm dịch vụ du lịch, mua mấy con ngựa kiểng cho khách thuê cưỡi, chụp hình, kiếm vài trăm khoẻ re. Phải công nhận rằng Hạnh mát tay, những con Hồng Tía, Đen Giòn, Cao Ngồng, Bạch Tuyết… phổng phao qua bàn tay Hạnh. Hạnh đội nón “cao bồi”, bộ đồ Jean bạc màu trên đôi giày ống kèm theo hàm ria kẽm như có sức hút mấy cô thiếu nữ du khách đến Thung lũng Tình yêu. Khi Hạnh dắt ngựa cho mấy cô cưỡi, gương mặt thiếu nữ đỏ hồng căng thẳng, miệng không ngớt gọi “anh ơi, anh ơi…”. Chị Năm không biết mấy chuyện này, chuyện ngoài đường ngoài xá làm sao lọt vô tai chị cho được? Chị cũng lâm vào cảnh như Hạnh, nghĩa là nước mắm không còn là ngành hàng độc quyền, ai cũng buôn được đồng nghĩa với lời lãi ngày càng ít đi. Chị chuyển qua đủ thứ nghề tạp nhạp. Mua đầu chợ bán cuối chợ, có lúc chị quay ra bán chuối chiên kiếm mấy đồng bạc lẻ nuôi gia đình, một ông chồng mê ngựa và một cô con gái. Chị chưa được làm mẹ bao giờ nên khi có con My chị háo hức lắm. Nhớ lần đầu ẵm nó trên đôi tay còn bay mùi hành ngò, chị Năm rơm rớm nước mắt. Chị thầm cám ơn Trời đã đem con bé đến cho chị, suýt chút nữa thì chị đã không kịp có con My nếu đi trễ chừng 5 phút. Mẹ ruột con My, một cô sinh viên nhẹ dạ nghe lời ngon ngọt của Hạnh đã lỡ trao thân cho ông chồng đa mang của chị. Người mẹ trẻ hứa với một người xa lạ khi chị ta lên nhà thương thăm một sản phụ nằm cạnh cô rằng ngày mai khi không còn choáng nữa cô sẽ đi về quê và “nhờ chị nuôi cháu giùm!”. May làm sao, Hạnh về thú tội với chị Năm, chị tất tả cắp nón lên nhà thương thì vừa kịp. Ôi ông Trời có mắt, ông trao cho chị đứa con gái giống Hạnh như hai giọt nước.
Bà Năm không buôn bán vặt nữa, bà có tuổi rồi không mau chân mau tay như thời trẻ. Bà ở nhà trở lại với cái nghề may thời thiếu nữ. Phải nói rằng tay nghề bà còn cứng lắm, bà cắt may còn sắc nét nhưng tiếc là bây giờ cái gì cũng cần thương hiệu, đâu ai biết bà Năm là một tay thợ khéo một thời ở Quy Nhơn? Vậy nên bà đành làm những việc may vá vặt cũng đủ tiền sống qua ngày. Ông Hạnh cả ngày lo chuyện ngựa, năm thì mười hoạ đưa cho bà đôi trăm, hôm sau lại mượn để làm những việc mà chỉ mình ông biết. Chỉ tội con My, nó đi lấy chồng mấy năm, một nách hai con, tần tảo giống bà thời trẻ, vậy mà thỉnh thoảng giúi cho bà mấy trăm “để mẹ mua đồ ăn tẩm bổ”. Nói cho cùng bà Năm có hàng đều đều, nhưng chỉ là những việc không thợ may nào chịu làm mới đến tay bà. Thôi thì chịu khó để kiếm miếng ăn, bà thường nghĩ thầm như vậy. Hai ông bà ăn chẳng bao nhiêu, thường thì chỉ mình bà lọ mọ ăn một mình, còn ông hay sa đà với đám bạn ngựa của mình, bạ đâu ăn đó.
Bà Năm đang ngồi một mình trong ngôi nhà vắng, bà đang nhớ đến hai đứa cháu ngoại. Cái thằng, bà nghĩ, cái gì cũng biết, chưa đến 3 tuổi mà như đứa lên 10. Gương mặt láu lỉnh, lúc nào về thăm ngoại cũng kêu to “ngoại ơi, con thương ngoại quá”. Rồi thằng nhỏ úp gương mặt non tơ của nó vào mặt bà, bà Năm đê mê sung sướng. Ông Hạnh đi chơi nhà bạn ngựa từ sáng tới giờ, bà quen ngồi một mình như vậy và chỉ nghĩ đến hai đứa cháu ngoại của bà, con của con My. Bà ngước mắt nhìn lên đường cái, một chiếc xe màu đen dừng trước cổng nhà bà. Một người có tướng sang trọng mở cổng vô nhà bà thiệt. Bà Năm đứng dậy tò mò nhìn người đàn ông. Anh ta nhìn bà cười thiệt tươi:
- Con chào má!
Ủa, bà đâu biết người này, lại còn kêu bà là má nữa, bà ngạc nhiên quá sức? Bà nói:
- Ai đó hè, sao lại biết tui, sao lại kêu tui bằng má?
Người đàn ông cười tươi:
- Má không nhớ con sao, con là thằng Phúc nè má?
Thằng Phúc, thằng Phúc nào hè? Bà Năm nghĩ không ra người đàn ông sang tướng kêu bà bằng má. Ngẫm ngợi một chút, ánh mắt của người đàn ông tên Phúc kéo bà về quá khứ. Thôi đúng rồi, thằng Phúc con của cô Lan… Chớp mắt mà đã mấy chục năm trời. Hôm mẹ chồng chị Năm chết, cả nhà đang làm đám thì cô Lan dẫn một thằng nhỏ chừng 10 tuổi vô nhà. Tưởng là hàng xóm đi điếu, chị Năm mời cô Lan ngồi với một thái độ vồn vã biết ơn. Chị quay tìm anh Hạnh để nhờ lấy giùm ấm nước, nhưng tìm quanh quất cũng không thấy Hạnh đâu, cái ông này, chị nghĩ, mới đó mà đã bỏ đi đâu lạ vậy? Cô Lan thưa chuyện sau khi nhấp một ngụm nước:
- Thưa chị, hôm nay em qua đây thắp cho bà nén nhang và thưa với gia đình cho cháu Phúc chịu tang bà nội!
…Bà Năm không nhớ diễn biến tiếp theo bởi lúc ấy bà bị xỉu, nhưng bà nhớ như in cảm giác nặng nề đè lên tim bà. Bà đã tha thứ cho ông Hạnh một lần, đổi lại bà được làm mẹ và nhất là không nhìn thấy khuôn mặt con người từng ăn nằm với chồng mình từng phút, từng giờ. Giờ đây lại là cô Lan hàng xóm, cách nhà bà chỉ có căn nhà bà Chín chứ có xa xôi gì đâu? Bà không thể, không thể…. Cô Lan bán nhà đi đâu không biết sau chuyện cả nhà chồng bà không tin chuyện của cô Lan. Ai cũng nghĩ rằng ông Hạnh chỉ lầm lỡ một lần, cô Lan bịa chuyện để làm khó ông Hạnh, xóm Ngã Ba ai cũng rành chuyện cô Lan đi vắng một thời gian, sau đó đem về một đứa con nuôi và nói rằng đời này cô ở vậy, không lấy chồng làm gì cho khổ. Bà Năm cũng tin như thế. Rồi chuyện cũng trôi qua theo thời gian, đâu có ai rỗi hơi mà nhớ mãi chuyện tằng tịu của ông Hạnh. Bây giờ thằng con nuôi cô Lan lại đứng sờ sờ trước mặt bà và lại kêu bà bằng má?!
Phúc nói:
- Má ơi, cho con vô nhà đi má!
Bà Năm nhìn Phúc, gương mặt ông Hạnh ngày đầu tiên vô tiệm may của bà ngoài Quy Nhơn hiển hiện trước mắt bà. Cũng mái tóc đó, cũng vầng trán đó, cái mũi trái mật không lẫn vào đâu được. Bà nhìn sững khiến Phúc ngạc nhiên:
- Má, sao má nhìn con dữ vậy?
Bà Năm giật mình:
- Con giống ông Hạnh quá!
Phúc mừng rơn:
- Vậy hả má, con là con ba Hạnh thiệt rồi, má không chối nữa nghen?
Bà Năm bây giờ mới tỉnh hồn, thôi rồi, một câu buột miệng của bà đã làm nên danh phận thằng Phúc. Thôi cũng đành, chuyện này cũng chỉ là chuyện đời vặt vãnh, bà nghĩ thầm trong bụng.
- Má ơi, má cho con kêu má là má Năm nghe! Đời con bây giờ chỉ mong được kêu hai tiếng ba má thôi.
Phúc vừa cắm nhang lên bát hương ông bà Bảy Khương vừa nói với bà Năm. Bà hỏi:
- Vậy chớ má con giờ ra sao?
- Má con chết hồi năm ngoái rồi! Bây giờ con lại có má Năm, phải không má?
Bà Năm không trả lời, bà chỉnh lại cây nhang trên bàn thờ ba mẹ chồng cho ngay ngắn, bà nói:
- Con xuống nhà rửa mặt đi, ba con cũng sắp về rồi.
Phúc đi xuống nhà dưới sau khi nói một câu:
- Má con kể với con rằng má con mê tiếng đàn của ba Hạnh từ ngày ba má học đệ tam (lớp 10). Khi ba Hạnh trở về lại dẫn theo má, má con hận ba Hạnh. Bà trả thù ba con bằng cách… có con với ba Hạnh, nhưng không cho phép ba Hạnh nhận con. Tới chừng bà nội con mất, má con mới nghĩ lại, vậy mà cả nhà lại không cho con nhận dòng họ. Má ơi, bây giờ má đã chịu rồi, con biết ơn má lắm!
Tháng sau, bà Năm cất nhà trên nền đất cũ, một căn biệt thự loại vừa có cánh cổng đủ để một chiếc xe hơi vào lọt thoải mái. Dân Ngã Ba ai cũng mừng cho vợ chồng bà Năm ông Hạnh và ai cũng ngạc nhiên, tiền đâu mà vợ chồng ấy lại xây ngôi nhà to vật vã như vậy chứ?
Ông Ngãi hỏi chuyện đó với bà Năm, bà cười cười:
- Có cái nhà khang trang một chút, mình ở thoải mái mấy năm rồi cũng chết thôi! Mà chú ơi có chi đâu chú, tui nghiệm ra chỉ là chuyện đời vặt vãnh thôi mà!
Truyện ngắn: Võ Anh Cương