Nhà ông bà nội tôi ở quê rộng rãi và thoáng mát. Phong cảnh làng quê êm đềm có lũy tre làng bao quanh xanh mát, tiếp đến là những cánh đồng thẳng cánh cò bay. Bốn mùa, cánh đồng như không nghỉ, khi thì trập trùng lúa xanh mơn mởn, tiếp đó là màu vàng lúa chín tơ tằm, ấm no chạy tít chân trời.
Nhà ông bà nội tôi ở quê rộng rãi và thoáng mát. Phong cảnh làng quê êm đềm có lũy tre làng bao quanh xanh mát, tiếp đến là những cánh đồng thẳng cánh cò bay. Bốn mùa, cánh đồng như không nghỉ, khi thì trập trùng lúa xanh mơn mởn, tiếp đó là màu vàng lúa chín tơ tằm, ấm no chạy tít chân trời.
Minh họa: Ngọc Minh |
Đẹp nhất là khi hoàng hôn buông xuống, cả làng, chìm trong những làn khói mảnh bay lên từ bếp lửa mọi nhà chuẩn bị cho bữa cơm chiều họp mặt đông vui sau một ngày làm việc vất vả. Khi ấy cũng là lúc lớp lớp những đàn cò trắng đi kiếm ăn xa bay về tổ trên lũy tre làng cất tiếng kêu rộn rã như chào tạm biệt nhau, cả như tiếng cò con gọi bố mẹ mừng vui ríu rít, tưởng tượng như bức tranh quê lung linh chớp sáng trong bản nhạc đồng quê êm đềm. Lũy tre nhà nào cũng trắng xóa cánh cò, cả làng là một rừng cò, rừng âm thanh náo nhiệt trong hoàng hôn thanh bình.
Có lần dẫn chúng tôi đi vòng quanh làng từ miền đất cổ tích này, vừa đi ông tôi vừa kể rất say sưa, tự hào. Làng ta là một pháo đài bất khả xâm phạm từ thời cụ kỵ ông bà. Mọi kẻ thù xâm lược không đánh chiếm được làng. Lũy tre làng kia là lũy thép. Những ao làng nhà nhà thông với nhau bằng những đường hào kia là phòng tuyến tiến thoái lưỡng nan rất lợi hại khiến quân thù bao phen khiếp sợ.
Bây giờ các cháu thấy đấy, dấu tích lũy tre, hầm hào phòng tuyến thép của làng kiểu mẫu chống giặc vẫn còn đây.
Bỗng ông tôi dừng lại bên lũy tre, những cây to cây nhỏ ken dày, những cành những gai đan xen bện xoắn chặt vào nhau, có những thân cây bánh tẻ quấn níu lấy nhau giống như những cánh tay đồng đội bám chặt lấy nhau quanh những ụ súng xưa. Tiếp đến là những gốc tre già tạo thành những tầng tầng lớp lớp những gốc tre đủ mọi hình thù kỳ dị, ngộ nghĩnh đẹp mắt, thân quen. Chỉ tay vào đó, ông tôi nhỏ nhẹ như giải thích: Các cháu thấy không? Tre sống chung thủy với người. Có nhiều tiện ích giúp người từ khi lọt lòng đến già rồi chết… Sống chết chở che người. Từ đời này đến đời kia “tre già măng mọc” thành “lũy tre” ngăn bão tố phong ba, giặc dã cho làng ta trường tồn. Những gộc tre già này tưởng chừng như vô dụng, nhưng không, nhờ có nó lũy tre mới vững. Đôi khi cũng phải đánh tỉa bớt đi cho măng mọc sinh sôi nẩy nở. Gộc tre được phơi khô thành củi đun. Tết đến, nhà nào cũng đem luộc bánh chưng. Gộc tre luộc bánh chưng rền ngon tha hồ để lâu không lại gạo.
Ông cháu tôi đi dạo quanh làng, gặp ai họ cũng chào hỏi thân mật, kính trọng: Bẩm, chào cụ Phó, dắt các cháu đi chơi thăm làng ạ! Ông tôi đều cung kính đáp lại: Dạ, không dám ạ… Các ông bà, hoặc các bác… đi làm về!
Có lần, tôi hỏi: - Ông ơi, ngày xưa ông làm gì ở làng mà ai cũng chào là cụ Phó thế? Ông tôi cười khà khà vui vẻ, ông chỉ làm ruộng, làm anh tá điền với con trâu đi trước cái cày đi sau, chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, chứ có được làm vương tướng gì đâu. Chả là, những lúc nông nhàn ông học mót được cái nghề đóng cối xay lúa, được bà con quý trọng gọi là phó cối cũng là một chức vị được dân tôn trọng phong cho. Ối nghề cũng được dân phong như thế, phó mộc (làm nghề thợ mộc), phó ngõa (làm nghề thợ xây)…
Sau này điện kéo về đến xã đến làng, những trạm xay xát thóc gạo mọc lên khắp nơi, vừa tiện lợi nhanh chóng, hạt gạo trắng ngon ít tấm đỡ cho công việc xay giã vất vả. Không ai bảo ai, mọi nhà bỏ xó cối xay cối giã. Ông tôi không còn đường hành nghề nữa. Nhưng chức vị phó cối, gọi tên là cụ Phó gắn với ông tôi suốt đời. Mỗi khi nhớ nghề, ông tôi lại ra rặng tre ngắm nghía đầu óc vẽ vời đẩu đâu. Nhất là khi nhìn vào những gốc tre già chen chúc nhau tầng tầng lớp lớp, nhiều hình thù kỳ dị, lạ mắt, thế là trong đầu nảy nở những ý nghĩ táo bạo. Và ông say sưa ngắm tìm những gọng tre ưng ý tỉa, đánh về mê mải đẽo đẽo gọt gọt với bàn tay khéo léo, đầu óc tưởng tượng phong phú tạo ra những con giống rất đẹp. Bạn bè đến chơi ai cũng khâm phục, khen ngợi ông tôi khéo tay hay mắt như một nghệ nhân giỏi, sáng tạo ra trò chơi dân gian mới, từ vật liệu sẵn có lại gắn mật thiết với dân quê. Khách ra về thích con nào ông biếu tặng con nấy. Nhiều ông bạn hãnh diện, trân trọng để vào tủ bày cho đẹp.
Ông tôi còn mày mò, chọn lựa, đẽo gọt thành những đôi guốc mộc tre trông thật ngộ nghĩnh, tiện lợi bền chắc, đi lại vững vàng nơi đường trơn lầy lội không sợ ngã. Nhất là đi vào rửa chuồng lợn, chuồng trâu, không giày dép nào sánh kịp. Gộc tre nào xung quanh cũng tua tủa những gộc tre. Ông tạo dáng gộc tre làm thân guốc, cắt tỉa rễ tre theo thân guốc. Đôi thì trông như đôi nhím, đôi thì như đôi chuột, đôi công, đôi thỏ… Trên đầu guốc đục một lỗ nhỏ, dưới gần gót guốc đục hai lỗ hai bên sườn để xỏ quai guốc như quai dép lê Thái Lan. Quai ông đan bằng những sợi cật tre bánh tẻ được luộc hấp cho thật dẻo, xỏ chân vào vừa êm vừa bền. Nhiều người trong xã ngoài làng đến hỏi mua. Ông tôi đều lắc đầu cười, biếu tặng làm quà kỷ niệm thôi. Có những dân buôn tìm đến, khen ông tôi là nghệ nhân kỳ tài có bàn tay vàng. Rồi mon men đặt hàng theo mẫu để xuất khẩu, ông tôi không nhận lời.
Sau khi khách ra về, ông dịu dàng nói với chúng tôi. Các cháu ạ, làm người tử tế phải biết sống có trước có sau, đã bao đời lũy tre làng đã cưu mang, che chở ta hết đận tao loạn này đến đận giặc dã khác để được còn làng còn chúng ta sống đến hôm nay. Không lẽ vì cái lợi trước mắt mà phá phách tanh bành ra hết. Phải biết giữ gìn những báu vật, ân nhân của mình, phòng khi…
Nói đến đây, ông tôi dừng lại bỏ lửng như một câu đố dành cho chúng tôi sau này lớn lên tìm ra lời giải mà điền vào. Ông tôi ngước mắt nhìn xa xăm bao quát lũy tre làng, vừa lúc ấy đàn cò lớn đi kiếm ăn từ khắp nơi bay về đậu trắng xóa đỉnh ngọn tre, những đôi cánh cò chớp sáng làm bừng lên ánh chiều tà ấm áp, rộn rã một vùng quê, tiếng cò con gọi bố mẹ hay tiếng chào nhau của bố mẹ nhà cò trước lúc về tổ.
Mãi sau này, khi lớn lên được ăn học, chúng tôi mới tìm ra được ẩn số, mới hiểu được lời ông tôi ở chỗ dừng “… phòng khi…” mà sâu sắc làm sao… Nhiều người trong làng trong họ mạc đến xin được học nghề, ông tôi không nhận lời truyền nghề cho ai, kể cả con cháu trong nhà.
Cả đời ông tôi mới tạo ra được một đôi guốc gộc tre ưng ý nhất. Ông trang trọng đặt ở ngăn tủ giữa trên tấm lụa điều. Khách vào chơi ai cũng ngạc nhiên thấy ông có một đôi guốc lạ độc nhất vô nhị. Nhiều người ở xa nghe tin đồn cũng tìm đến xin ông cho xem bằng được. Có người giàu, quan chức tỉnh về xin mua trả giá rất hời có thể mua được mấy tạ gạo, ông tôi đều lắc đầu.
Làm ra được đôi guốc này, ông tôi phải mất nhiều năm tìm kiếm, ngắm nghía, lựa chọn nhiều bụi tre lớn, lâu đời mới ưng ý đôi gộc tre ấy. Thế rồi hì hục đánh về phơi khô thêm, tiếp tục ngắm nghía hết ngày qua đêm tưởng tượng tìm thế tạo dáng cho đôi guốc vừa giữ được dáng vẻ tự nhiên sinh ra của gốc tre, vừa phải thể hiện có bàn tay khối óc của con người ẩn chứa nét tài hoa, cái đẹp, cái lạ, ai trông thấy cũng phải thích. Khó nhất là tạo đầu đôi guốc như hai đầu rồng, một trống một mái. Thân guốc như đôi thuyền rồng thong dong… quai guốc như những vảy rồng, xỏ chân vào ôm lấy nhẹ nhàng êm ái, đi lâu không bị phồng, xước bàn chân có độ đàn hồi vừa phải, dẻo dai bền chắc, giúp cho dáng đi vững vàng, duyên dáng. Quai guốc ông tôi phải chọn lựa cật tre bánh tẻ kỹ lưỡng lắm, chế tác làm sao cho cật tre dẻo, bền lâu, dễ đan bện cũng phải công phu lắm. Bên quai guốc cũng phải nghĩ ra nhiều mẫu mã để lựa chọn ra một mẫu phù hợp với cách tạo dáng của đôi guốc, mang vẻ đẹp hoàn hảo nhất.
Làm xong đôi guốc, ông tôi mãn nguyện lắm và cũng là lúc tuyên bố “gác kiếm”, lực bất tòng tâm rồi. “Hưu” thôi. Vào cuối xuân, đầu hè năm 61, Bác Hồ về thăm tỉnh tôi. Quê tôi có truyền thống đánh giặc giữ làng giỏi, sản xuất xây dựng quê hương mới trong hòa bình cũng rất tài. Từ hợp tác xã bậc thấp tiến lên hợp tác xã bậc cao tiên tiến lá cờ đầu của tỉnh. Nhân dịp này được đón Bác về thăm. Một vinh dự lớn, cả làng xã và các xã lân cận nhộn nhịp chờ đón Bác từ chiều hôm trước. Ba giờ đêm mọi người đã kéo đến chật ních sân trụ sở hợp tác xã. Hôm ấy trời lại mưa rất to như trút nước suốt đêm tới tận bảy, tám giờ sáng chưa tạnh. Nhưng không cản được bà con khắp nơi nô nức kéo về. Đến hơn chín giờ trời bỗng tạnh ráo hửng nắng, vừa đúng lúc Bác về đến nơi. Theo tác phong sâu sát, Bác đề nghị lãnh đạo địa phương đưa Bác đi thăm khắp lượt hàng xóm trước khi đến gặp gỡ nói chuyện với toàn dân. Mọi người đều phân vân lo ngại vì đường làng ngõ xóm chưa tốt, lại bị trận mưa đêm qua không tránh khỏi trơn lầy, không bảo vệ được an toàn cho Bác. Ông tôi xuất hiện đúng lúc, nhắn gọi ông Chủ tịch xã ra cổng nhờ biếu Bác đôi guốc gộc tre để Bác đi không sợ đường trơn, lầy thụt.
Sau đó Bác về gặp gỡ nói chuyện gần một tiếng đồng hồ với toàn dân. Bốn năm ngàn trái tim xúc động im lặng hướng về Người, như nuốt lấy từng lời dạy bảo ân cần của Người. Ông tôi đứng lẫn trong biển người hồi hộp lắng nghe, khắc ghi từng lời của Bác và vô cùng sung sướng được Bác đi đôi guốc gộc tre làng mà ông mất bao thời gian, công sức làm ra mới có dịp phục vụ Bác đi thăm làng được an toàn. Buổi chiều ông tôi ngồi uống nước chè một mình thì anh Chủ tịch xã đến chơi: Thưa ông, Bác Hồ gửi trả lại ông đôi guốc quý ạ. Bác gửi lời cám ơn ông và chúc ông sức khỏe. Bác khen đôi guốc rất đẹp, phải khéo tay, có nhiều khiếu thẩm mỹ mới sáng tạo được. Lại rất tiện dụng, nhờ vậy mà Bác đi cả buổi đường làng ngõ xóm có trơn, lầy lội một số chỗ vẫn an toàn. Bác biết ông mất nhiều công sức và tài năng mới tạo ra được đôi guốc này. Bác gửi lại ông để giữ làm kỷ niệm.
Ông tôi ngớ người ra… vui vẻ nhận lại đôi guốc. Đôi guốc đã được rửa sạch bùn đất. Cầm đôi guốc trên tay mà lòng cứ bồi hồi làm sao, áp đôi guốc vào ngực, trái tim bỗng đập rộn lên xao xuyến lạ lùng, trong lòng tôi như thầm reo lên: - Ôi! Đôi guốc như vẫn còn lưu giữ hơi ấm của Người.
Ông tôi trân trọng đặt đôi guốc về chỗ cũ, ô giữa tủ trên tấm lụa điều. Mấy năm sau, ông tôi cao tuổi lực kiệt, chỉ qua mấy ngày kém ăn mất ngủ là thanh thản ra đi. Trước đấy, một hôm ông nói với tôi: “Đôi guốc là tâm huyết cả đời của bố, là kỷ vật thiêng liêng bất ly thân của bố, diễm phúc lắm nhà ta mới được lộc Bác Hồ đi đôi guốc này ngày về thăm làng. Bố mất đi, con phải hóa đôi guốc theo bố. Lên trên ấy may được gặp Bác, bố kính biếu lại Bác”.
Đôi guốc gộc tre cùng vàng mã được hóa trên mộ ông tôi. Tôi được chứng kiến từ lúc ngọn lửa bén cháy, rồi bốc lên ngùn ngụt. Đến khi đôi guốc cháy thành than cùng với tro vàng mã, bỗng một luồng gió thổi đến xoay tròn làm rực lên ngọn lửa xanh lét, xoay tròn như vòi rồng hút tro than và khói hương lên trời cao.
Bầu trời trong xanh thăm thẳm.
Truyện ngắn: Đặng Tiến Huy