Hrê - một tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme, địa bàn cư trú ở khu vực Trung Tây Nguyên, nơi giáp ranh giữa các tỉnh Kon Tum, Gia Lai với Quảng Ngãi, Bình Định, vùng tập trung đông dân Hrê nhất là các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Trà Bồng (Quảng Ngãi) và huyện An Lão, Kim Sơn (Bình Định).
Hrê - một tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme, địa bàn cư trú ở khu vực Trung Tây Nguyên, nơi giáp ranh giữa các tỉnh Kon Tum, Gia Lai với Quảng Ngãi, Bình Định, vùng tập trung đông dân Hrê nhất là các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Trà Bồng (Quảng Ngãi) và huyện An Lão, Kim Sơn (Bình Định).
Trong tập tục ẩm thực của người Hrê, tục uống trà là nét văn hoá khá độc đáo. Người Hrê trồng chè trong vườn nhà, nương rẫy; mỗi nhà chỉ trồng vài mươi cây để dùng và trao đổi với bà con trong vùng; sản phẩm chè chưa phải là hàng hoá. Thường ngày bà con uống trà khô. Cành lá chè thu hái về, vò nát, phơi khô. Khi dùng, cho trà vào ấm đất đun sôi khoảng mươi mười lăm phút, đoạn rót trà vào khoảng 2/3 chiếc bát đất, chế thêm một phần nước mưa vào bát, nước trà sủi bọt trắng, thổi nhẹ lớp bọt trắng, uống… Những khi đang lao động ngoài đồng trên nương, lúc giải lao được uống một bát nước trà khô như vậy, thật sảng khoái, mệt nhọc nóng bức hầu như tiêu tan hết. Các dịp lễ tết, hội hè, đón khách quý… việc pha chế trà có phần cầu kỳ hơn. Lá chè phải hái vào buổi sáng sớm lúc mặt trời mới lên, sương vừa tan trên mặt lá; người ta hái ngọn và mấy lá non vừa chớm sang màu xanh nhạt, người Hrê gọi là lá vja - nghĩa là không còn non nhưng cũng chưa già. Lá chè thu hoạch về, trụng sơ qua nước sôi rồi trải ra trên nong đặt ngoài hiên cho ráo nước mới đưa vào nấu.
Dụng cụ nấu nước trà là ba chiếc nồi đất to - vừa - nhỏ. Nồi to chứa khoảng 1 lít rưỡi nước và nồi nhỏ chỉ gần gấp đôi ấm pha trà. Lá chè đổ vào nồi to ngập nước mưa trong vắt, đun sôi độ 30, 40 phút. Lá vớt ra cho vào chiếc giỏ mây đặt vào nồi vừa với nước trà từ nồi to chuyển sang. Đun tiếp, ngọn lửa riu riu, gần 20, 30 phút; sau đó, đổ nước sang chiếc nồi nhỏ, đặt lên than hồng cũng khoảng thời gian trên, nước trà sánh lại, vàng óng tựa như mật ong non. Người ta rót nước trà vào chiếc mo cau gấp uốn giống như chiếc bát hình vuông. Đồ uống trà là chiếc chén ăn cơm đã được rửa sạch, tráng nước sôi. Chủ nhà dùng chiếc gáo nhỏ hình phễu bằng lá cọ múc nước trà chế đều vào bát. Cạnh khay trà là nồi nước mưa đã đun sôi; người uống tuỳ sở thích, có thể nhấm trà đặc đậm hoặc tự pha thêm một ít nước sôi. Chủ nhà nâng bát trà lên chân tình mời mọi người thưởng thức. Khách - chủ bưng bát nước trà hít thật sâu hương trà thoang thoảng thơm lẫn mùi ngai ngái của lá rừng, đoạn thong thả nhấm từng ngụm nhỏ để thụ hưởng thật trọn vẹn hương vị đăng đắng, chan chát, ngon ngót của nước trà đang thấm vào lưỡi và khi nước trà từ từ trôi xuống họng thì lại chuyển sang vị ngòn ngọt, nồng ấm, thanh thanh khiến cho người uống một cảm giác thật dễ chịu, khoan khoái… Trong lúc chờ đợi pha chế trà, chủ khách trò chuyện, nhấm nháp bắp rang, cốm dẻo, trái cây… mùa nào thức ấy.
Cách thức pha - uống trà của người Hrê đã đạt đến nghệ thuật siêu đẳng có thể sánh ngang với kiểu cách Trà đạo của nhiều vùng miền, nhiều dân tộc trong nước, thế giới.
Ngô Diệp