Tôi đến buôn (bon) B'Kẻh (thôn 4, xã Lộc Ngãi, huyện Bảo Lâm) với dự định sẽ kiếm một ngôi nhà sàn nào đó để được bập bùng bên ánh lửa và ngả nghiêng say bên những ché rượu cần dài tít tắp, cùng tiếng chiêng ngân, tiếng hát đối, hát ru; nhưng rốt cuộc, lại lặng ngồi hiu hắt nghe câu chuyện u hoài của người già, kể về sự thiếu vắng hơi thở đại ngàn trong đời sống đương đại.
Tôi đến buôn (bon) B’Kẻh (thôn 4, xã Lộc Ngãi, huyện Bảo Lâm) với dự định sẽ kiếm một ngôi nhà sàn nào đó để được bập bùng bên ánh lửa và ngả nghiêng say bên những ché rượu cần dài tít tắp, cùng tiếng chiêng ngân, tiếng hát đối, hát ru; nhưng rốt cuộc, lại lặng ngồi hiu hắt nghe câu chuyện u hoài của người già, kể về sự thiếu vắng hơi thở đại ngàn trong đời sống đương đại.
|
Chuẩn bị mời khách uống rượu cần |
Chiều muộn. Bon B’Kẻh chỉ còn lưa thưa vài sợi nắng đang lảng vảng trên những ngọn đồi. Lũ làng đã bắt đầu quây quần bên nhau, chuẩn bị ăn bữa cơm chiều. Tôi ngồi cạnh bà Ka Sệp - nghệ nhân chế biến rượu ở bon B’Kẻh, trong căn nhà dài mong tìm chút niềm vui đơn sơ nơi những tâm hồn Châu Mạ mộc mạc, chân chất, bình dị, nhưng niềm vui nhỏ nhoi ấy đã không thành. Thậm chí, nó còn bị mất đi cùng với nét xưa của lũ làng. Ngôi nhà dài của bà Ka Sệp vẫn còn đó những chiếc ché cổ, đủ các kích cỡ lớn nhỏ khác nhau, nhưng thi thoảng mới được dùng để ủ rượu. Bếp lửa vẫn còn, chỉ có điều thay vì cháy sáng suốt đêm như trước kia, thì nay rất hiếm khi đỏ lửa.
Biết tôi có ý định tìm hiểu về quy trình làm men rượu cần, bà Ka Sệp chép miệng: “Lâu nay, ở bon B’Kẻh, nhiều nhà vẫn sử dụng viên men khô của Trung Quốc để ủ rượu cần, thành thử chất lượng rượu không đảm bảo, uống vào thường dễ bị nhức đầu. Nhưng…” - bà ngập ngừng. “Không thế cũng chả được! Bởi, muốn có men rượu cần chính thống, phải vào tận rừng sâu của Lộc Lâm, Lộc Bảo, may ra mới kiếm được lá Rờ hộch - loại lá mà người Châu Mạ xưa nay thường dùng để làm men rượu. Chứ ở Lộc Ngãi, tìm đâu ra lá Rờ hộch!”. Tôi gật đầu. K’Ngân, con rể bà Ka Sệp, cho biết: “Bọn trẻ Châu Mạ bây giờ chỉ thích uống bia hoặc rượu đế, chứ ít người còn chú ý đến rượu cần truyền thống của dân tộc mình”. K’Ngân nói thêm: “Trong số hơn 300 gia đình là đồng bào dân tộc thiểu số Châu Mạ sinh sống tại bon B’Kẻh, số người biết và còn làm rượu cần chỉ đếm trên đầu ngón tay”. “Tao cũng tiếc truyền thống của ông bà chớ, nhưng đành chịu, chẳng thể làm được gì. Thế giới đang “phẳng” mà!” - Ka Thủy, con gái bà Ka Sệp, thở dài.
Tôi nhìn sang bà Ka Sệp, xem bà phản ứng thế nào trước ý kiến của con trẻ, thì thấy bà đang ngồi bất động. Hình như bà Ka Sệp nghĩ ngợi gì mông lung lắm. Rồi chẳng hiểu sao, như chợt nhớ lại những tháng ngày vàng son, bà hào hứng hẳn lên: “Ngày xưa, mỗi khi dân bon mở hội, lễ vật nhất thiết phải là những ché rượu cần ủ lâu ngày ngon nhất làng trên, bon dưới dâng lên Yàng. Cùng với cây nêu, tiếng chiêng thiêng, con vật hiến tế, ché rượu cần là thứ không thể thay thế trong nghi thức cúng Yàng”. Bà Ka Sệp tiếp: “Rượu cần nguyên thủy có vị ngọt sâu, hương thơm đằm, mang đúng đặc trưng núi rừng. Tuy độ hơi cao, nhưng khi uống lại rất êm và làm người uống hưng phấn”.
Câu chuyện bất ngờ xoay sang một hướng khác, không còn nặng nề, u uẩn nữa. Ka Thủy tiếp lời mẹ bằng một làn điệu dân ca của người Châu Mạ: “Ơ cau mút tẽh tăm hiu. Nhô tơnơm bơkă lă bơ sạp. Ơ cau mút tẽh tăm hiu. Nhô tơnơm bơkă lă bơ sạp. Nhô tơnơm ơi… ơi… ơi. Nhô tơnơm ơi… ơi… ơi. Nhô tơnơm bơkă lă bơ sạp. Di lă bơkă oh mi nhô. Di lă bơ sạp oh mi lơi. Gió rơ nừng tịp tàng he de. Gió rơ nàng tịp tai he de. Wac tơ ngai mơ val he de”. Tạm dịch: “Người ơi, hãy vào trong nhà. Uống rượu cần, rượu ngon hay rượu lạt. Người ơi, hãy vào trong nhà. Uống rượu cần, rượu ngon hay rượu lạt. Uống rượu cần ơi… ơi… ơi. Uống rượu cần ơi… ơi… ơi. Uống rượu cần, rượu ngon hay rượu lạt. Lâu rồi mới gặp. Lâu lắm rồi mình lại gặp nhau. Một ngày nào đó mình sẽ lại gặp nhau”.
Bà Ka Sệp nói: Để có được loại rượu cần phẩm chất tốt, đòi hỏi phải có men tốt. Men chính là yếu tố quyết định. Bởi vậy, đầu mùa khô, dân Châu Mạ khắp các bon đã rậm rịch tìm đến những con suối lớn để hái lá Rờ hộch về làm men rượu. Những lá được chọn thường không quá già cũng không quá non. Rờ hộch được đưa về nhà phơi khô, tán nhỏ. Bên cạnh vị chính là lá Rờ hộch, men làm rượu cần còn có thêm các vị khác, như: Bột ớt hiểm, bột riềng rừng, muối, tỷ lệ theo công thức gia truyền. Sau khi đã giã nhuyễn, lá Rờ hộch được đem trộn đều với bột ớt hiểm, bột riềng rừng, bột gạo lúa mẹ, muối, nước và trấu, rồi vo lại thành từng viên nhỏ, tròn, dẹt, gác trên giàn bếp ấm hoặc phơi trong bóng râm, độ vài ngày cho viên men phồng to, áng chừng có thể ủ rượu được là xong. Men này mang bốn vị: Đắng, chát, cay và ngọt. Lá Rờ hộch cho vị đắng, ớt hiểm có vị cay nồng, riềng rừng mang vị chát hòa trong vị ngọt của bột gạo lúa mẹ. Đặc sắc của núi rừng là ở đấy! Bí truyền cũng ở đấy!
Công đoạn bào chế men rất quan trọng, vì nó quyết định phẩm chất rượu ngon hay không. Do đó, nghệ nhân ủ rượu cần phải tuân thủ nghiêm ngặt từ khâu chọn lá Rờ hộch, ớt hiểm, riềng rừng cho đến công đoạn ủ men thủ công truyền thống, tỷ lệ men cho vào cơm rượu là bao nhiêu thì vừa. Tất cả những bí quyết này đều được nhiều đời ông bà truyền lại.
Men đã sẵn. Công việc tiếp theo là nấu cơm sao cho vừa mềm, vừa dẻo. Muốn có loại cơm rượu ngon, trước đó, phải chọn loại lúa mẹ ngon nhất, đem vào cối giã để loại bỏ lớp trấu. Rồi mang gạo lúa mẹ nấu chín tới, tải ra nia, dàn đều, lúc còn ấm tay thì rắc men đã tán mịn, với một ít vỏ trấu lên mặt cơm để tạo độ thoáng và đảo thật đều. Tiếp đến, cho hỗn hợp cơm rượu này vào rổ tre ủ kỹ khoảng 2 ngày (tùy thời tiết nóng hay lạnh) cho dậy men và ra nước mọng. Lúc bấy giờ mới cho vào ché (sau khi ché đã được rửa sạch bằng nước sôi và đã đem phơi khô từ 1 đến 2 hoặc 3 nắng).
Bà Ka Sệp “bật mí”, có một việc hết sức quan trọng trong niềm tin của đồng bào Châu Mạ, đó là chỉ được phép bỏ cơm rượu vào ché với điều kiện các thành viên trong gia đình đều đã có mặt đông đủ tại nhà. Vì người Châu Mạ quan niệm, nếu thành viên của gia đình mình đang còn trên rẫy, chưa kịp về nhà mà đã ủ rượu, người đó sẽ gặp những chuyện không may.
Các nghi thức đã thực hiện xong, bấy giờ mới lấy hòn than đang cháy hồng trong bếp và gõ nhẹ vào thành ché cho than rớt vào trong, kèm theo một lời “bùa chú” (ý nói mong sao ché rượu sẽ nồng như hòn than đỏ). Dưới đáy ché là một lớp trấu mỏng cùng một ít lá cọ, lá mía và lá chuối khô, tiếp một lớp cơm rượu, rồi một lớp trấu… Cứ thế, cho đến khi đầy ché thì dùng tro bếp hòa với nước làm thành cái nắp đậy. Sau đó, mang ché rượu để ở nơi khô thoáng và ấm, chừng 1 tháng đến 1 năm (tùy theo kích cỡ của ché) là dùng được.
“Tùy từng mục đích uống mà người Châu Mạ có cách uống rượu cần riêng” - Bà Ka Sệp giải thích. “Trong lễ cúng Yàng, người Châu Mạ chỉ dùng một cần. Còn trong tiếp khách quý hay bè bạn, người Châu Mạ vẫn có thể dùng nhiều cần”. Qua lời kể của bà Ka Sệp, tôi mường tượng về một nghi thức uống rượu cần của người Châu Mạ: Gia chủ khui ché rượu, đọc vài lời khấn, xin Yàng mang đến sức khỏe, niềm vui cho mọi người và cắm cần vào ché, uống trước một hơi rượu, rồi nâng cần trao cho khách. Gia chủ tiếp tục trao cần cho những người còn lại, mỗi người một cần, nhưng uống theo thứ tự khách quý, người lớn tuổi uống trước. Mỗi lần thay đổi người uống, lại có một người đảm trách công việc châm nước suối vào ché. Chừng nào mọi người uống xong, đến lượt gia chủ uống cuối cùng thì nghi lễ mới kết thúc.
Theo lời bà Ka Sệp, rượu cần đối với đồng bào Châu Mạ, không chỉ đơn thuần là rượu, mà cao hơn và xa hơn rượu. Rượu trở thành một triết lý sống, một nghi lễ văn hóa tâm linh, gắn kết dân bon cùng các thế lực siêu nhiên.
Trăng đã lên cùng sương, cảnh vật thanh vắng, u tịch lạ. K’Ngân tiễn tôi ra đến đầu ngõ. Tôi rời bon B’Kẻh khi đêm và lũ làng đã vào giấc sâu. Phía bên kia ngọn đồi, ánh đèn nhà ai vẫn hiu hắt sáng, như một nỗi nhớ xa xôi đang mờ dần.
TRỊNH CHU