Trở về với dân gian là để tắm lên mình cái vẻ đẹp của tự nhiên nguyên khiết, của văn hóa và sử lịch. Còn trở về với dân ca là để được đắm mình trong nguồn mạch văn hóa bản địa, tức cái bản sắc riêng có của mỗi vùng miền.
Thú thật, rất lâu rồi, tôi mới được nghe yal yau. Những khúc ru đẹp và buồn đến đắng ruột. Sơn nữ già Ka Bểu (xã Đinh Trang Hòa, huyện Di Linh) vẫn hồn nhiên hát, hát say sưa, quên trời, quên đất, quên luôn cả nghịch cảnh mà bà đang ngày đêm đối diện. Chồng bà (ông K’Breo) đang ốm “thập tử nhất sinh”, nhưng khi chạm vào yal yau, chạm vào dơs long, dơs cha rih… - những điệu ru, hát kể chuyện của người K’Ho, bà như thăng hoa, nhập “đồng”. Tôi có cảm tưởng bà đang hát “thánh ca” của dân tộc mình. Chính sự ngẫu hứng, tùy hứng ấy đã neo đậu vào tâm trí vốn rất phiêu sương của tôi bát ngát một trời tuổi thơ rười rượi, tựa như cái thế giới trong câu ca xưa mẹ hát.
|
Nghệ nhân Ka Bểu |
Trở về với dân gian là để tắm lên mình cái vẻ đẹp của tự nhiên nguyên khiết, của văn hóa và sử lịch. Còn trở về với dân ca là để được đắm mình trong nguồn mạch văn hóa bản địa, tức cái bản sắc riêng có của mỗi vùng miền. “Dân ca phản ánh một cách sơ khởi nhận thức của người xưa về thế giới tự nhiên. Người K’Ho sống cuộc đời gắn liền với lễ nghi nông nghiệp. Một năm, theo tập tục, người K’Ho thường tổ chức 4 lễ hội: Nhô kràs măt, Nhô long koi, Nhô R’he, Nhô B’nơm. Dân ca, dân vũ và dân nhạc là không thể thiếu trong các dịp lễ nghi của đồng bào K’Ho” - sơn nữ già Ka Bểu chậm rãi nói.
Tiếng nói của yal yau là tiếng nói của đại ngàn hoang sơ mênh mông. Hơn thế, nó còn là tiếng vọng thâm nghiêm của non cao, rừng thẳm, đủ sức khơi gợi, gieo vào lòng nguồn mỹ cảm và làm bừng lên trong ta cái chân thức, để rồi ngộ ra thân phận người mong manh, bé nhỏ trước vô tận của thiên nhiên. Người am tường dân ca sẽ nhìn vào bề sâu, bề dày văn hóa của từng câu ca để tìm ra lịch trình phức hợp, phức điệu và rồi nhận ra những chân giá trị. Trên lối về quá khứ vô tận này, những chân giá trị ẩn sâu trong mỗi câu ca, điệu hát luôn âm ỉ những huyền tích mà người xưa gửi gắm, trao truyền. Ở đấy, những suối, những rừng, những ngôi nhà sàn đơn sơ luôn ngập tràn tiếng hát. Ở đấy, cũng có thể là lời tự tình đôi lứa hoặc là lời răn dạy, chỉ bảo của người xưa và cũng có thể là một cung đàn gửi vào xa vắng, hoang vu… Tất cả quyện hòa khi trầm, khi bổng; lúc rộn rã, vui tươi; lúc đượm buồn, ai oán, đưa con người vào giai điệu khác nhau của những cung bậc cảm xúc trong thanh âm núi rừng u linh.
“Phụ nữ K’Ho còn vất vả lắm. Cuộc sống có nhiều thứ quan trọng hơn ca dao” - Ka Bểu chia sẻ. Trăn trở của nghệ nhân Ka Bểu thật xác đáng. Bởi, trên thực tế, chưa bao giờ người K’Ho hết lo toan. Áo cơm vẫn là sự day trở thường trực đối với người K’Ho, thì những giá trị dân gian như yal yau, dơs long, dơs cha rih đứng trước nguy cơ biến mất khỏi đời sống đương đại, âu cũng là điều dễ hiểu và dễ cảm thông.
Thực tế khác, không kém phần cam go, đó là số nghệ nhân lớn tuổi có kiến thức, am hiểu tường tận ý nghĩa sâu xa trong mỗi khúc dân ca của đồng bào K’Ho còn rất ít. Những cánh rừng già, hay nói cách khác, là không gian văn hóa, nơi sản sinh những khúc yal yau, dơs long, dơs cha rih ngày càng lùi xa vào ký ức cộng đồng. Căn nhà của nghệ nhân Ka Bểu từng là nơi gặp gỡ, trao đổi về văn hóa dân gian K’Ho, nay gần như vắng bóng người qua lại. Bản thân Ka Bểu tuy là một “kho” kiến thức về dân ca nhưng tuổi đã cao, sức yếu. Chẳng may những con người này về với Yàng, e rằng những nét đẹp văn hóa xưa sẽ mất. Chưa kể, những kho báu dân gian khác đang trầm tích, tản mác đâu đó trong bon rất cần người kế cận, nối nghiệp gom nhặt lại...
Chỉ chừng đó thôi cũng đủ thấy việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc hiện nay là việc làm hết sức khó khăn. Tất nhiên, trong bon, thỉnh thoảng, tôi vẫn gặp những con người với đầy đủ phẩm chất nghệ sĩ và tinh thần trách nhiệm, đang âm thầm gìn giữ vốn văn hóa cha ông. Nhưng văn hóa chỉ sống được, tồn tại được, một khi đã ăn sâu vào ý thức cộng đồng, chứ không phải được dàn dựng, biểu diễn trên sân khấu thời thượng mang mỹ từ “về nguồn”, hay đơn thuần chỉ là nỗ lực bảo tồn của một số ít nghệ nhân. Nhiều hội thảo chuyên đề, nhiều luận cứ khoa học đã chỉ ra rằng, về lâu dài, muốn gìn giữ, lưu truyền dân ca, dân vũ và dân nhạc cũng như các lễ hội của người K’Ho thì còn quá nhiều việc để làm. Theo các nhà nghiên cứu, việc đầu tiên là mở các lớp để nghệ nhân truyền dạy cách làm, cách sử dụng nhạc cụ, các điệu múa, làn điệu dân ca cho lớp trẻ; đồng thời, xây dựng các điểm văn hóa cộng đồng, là nơi để nghệ nhân biểu diễn các điệu múa, làn điệu dân ca cho trai gái trong bon thấy hết nét đẹp dân ca dân tộc mình mà tự nguyện tìm hiểu, học hỏi rồi giữ gìn và phát huy.
Ráng chiều đang chực tắt trên đỉnh Sa Lung. Tôi ngước nhìn rất lâu cái màu phơn phớt, hồng hồng như hồi quang của quá khứ ấy và bỗng dưng cái quê nhà tảo tần nơi mù khơi trí nhớ của tôi lại xuất hiện. Tôi ước mình được là thằng bé con đang chạy theo lũ bạn để réo gọi ngày xưa quay về.
TRỊNH CHU