Chúng tôi về Bến Tre - địa danh anh hùng qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược đúng vào dịp kỷ niệm 192 năm ngày sinh của nhà thơ yêu nước tiêu biểu giữa thế kỷ XIX của vùng đất Nam Bộ - Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888). Bâng khuâng trước di tích đền thờ và mộ chí Đồ Chiểu, tôi mơ hồ như nghe tiếng thơ lòng nặng tình non nước của bậc tiền nhân tài đức ngàn xưa vọng về…
Chúng tôi về Bến Tre - địa danh anh hùng qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược đúng vào dịp kỷ niệm 192 năm ngày sinh của nhà thơ yêu nước tiêu biểu giữa thế kỷ XIX của vùng đất Nam Bộ - Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888). Bâng khuâng trước di tích đền thờ và mộ chí Đồ Chiểu, tôi mơ hồ như nghe tiếng thơ lòng nặng tình non nước của bậc tiền nhân tài đức ngàn xưa vọng về…
|
Các nhà báo tỉnh Lâm Đồng thăm viếng đền thờ cụ Nguyễn Đình Chiểu tại huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Ảnh: NGỌC MINH |
Là người Việt Nam có lẽ bất cứ ai cũng nhớ đằng lòng 2 câu thơ nổi tiếng của nhà thơ mù Đồ Chiểu: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà!”. Và, các tác phẩm: Lục Vân Tiên, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc… đã đi vào lòng người dân Nam Bộ như những áng thơ văn bất hủ thể hiện rõ nhân cách sống, thiên hướng sáng tác và tài năng văn chương của Đồ Chiểu.
Sinh ngày 1/7/1822 và lớn lên giữa lúc đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, dân tộc sống trong nô lệ, lầm than; bản thân Nguyễn Đình Chiểu gặp nhiều bất hạnh: mẹ mất lúc ông 27 tuổi và đang chuẩn bị khoa thi năm Kỷ Dậu (1849); thương mẹ khóc nhiều và bị bệnh nên mù cả hai mắt, rồi bị hôn thê bội ước… Những tưởng, những “biến cố” lớn lao ấy dễ làm con người ta buông xuôi số phận. Song, Nguyễn Đình Chiểu đã vươn dậy sống và để lại cho đời một tấm gương sáng ngời về tài năng, đức hạnh và tấm lòng trung nghĩa với nước, với dân. Vừa là nhà thơ, nhà giáo và thầy thuốc, 66 năm sống ở đời, đặc biệt giai đoạn gần gũi, gắn bó với phong trào đấu tranh của các sĩ phu yêu nước Nam Bộ đã tác động lớn đến tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu. Ngoài dạy học trò mở mang kiến thức, hun đúc lòng yêu nước thương nòi, đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc; bốc thuốc chữa bệnh cứu người, Đồ Chiểu đã dành cả cuộc đời cho thơ, văn. Nguyễn Đình Chiểu có quan niệm văn chương nhất quán, ông chủ trương dùng văn chương biểu hiện đạo lý và đấu tranh cho sự nghiệp chính nghĩa. Nói cách khác, ông làm thơ là để “chở đạo, sửa đời và dạy người”.
Trong văn chương yêu nước và cách mạng, chúng ta thường đề cập đến “chất thép”; trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu “chất thép” đó chính là dùng “văn tải đạo”, dùng ngòi bút để “đâm mấy thằng gian” - một thứ vũ khí vô cùng sắc bén của người chiến sĩ “mù” đã có sức mạnh lay động vô cùng to lớn đối với phong trào yêu nước chống Pháp lúc bấy giờ. Lấy sự đui mù của mình, Đồ Chiểu phê phán thói giả dối, nhu nhược của bè lũ tay sai, bù nhìn, bán nước:
“Thà đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn có mắt ông cha không thờ…”
(Thà đui)
Hàng chục tác phẩm thơ, hịch, văn tế của Đồ Chiểu thể hiện tấm lòng cảm phục, yêu mến nhân dân, các sĩ phu, nghĩa sĩ trung hiếu hy sinh cho sự nghiệp đấu tranh chống Pháp xâm lược ở Lục tỉnh và nhân dân Nam Bộ. Đó là: Chạy Tây (1859), Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (1861); Mười hai bài thơ và văn tế Tướng quân Trương Định (1864); Thơ điếu Đông các Đại học sĩ Phan Thanh Giản (1867); Mười hai bài thơ điếu Phan Tòng (1868), Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh (1874); Cáo thị, Thảo thử hịch; truyện thơ Dương Từ, Hà Mậu và Ngư tiều y thuật vấn đáp…
Cảm phục trước nhân cách, sự đóng góp to lớn của một nhà thơ yêu nước tiêu biểu của nhân dân miền Nam trong kháng chiến chống Pháp, nhân kỷ niệm lần thứ 85 ngày mất của cụ Đồ Chiểu, trên Tạp chí Văn học (7/1973) cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận xét rất tinh tế: “Nguyễn Đình Chiểu là ngôi sao sáng trên bầu trời đầy sao nhưng là vì sao có ánh sáng khác thường mà con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy và càng nhìn càng thấy sáng. Cái ánh sáng khác thường, sáng hơn hết, rực rỡ hơn hết và bao trùm hơn hết của ngôi sao sáng Nguyễn Đình Chiểu là tính chiến đấu bàng bạc trong các tác phẩm của ông để lại”.
Bước vào Khu di tích, đền thờ và khu mộ chí của cụ Đồ Chiểu tại ấp Giồng Cụt, xã An Đức, huyện Ba Tri (Bến Tre), chúng tôi choáng ngợp trước một không gian thoáng rộng, yên tĩnh và tôn kính. Việc xây dựng, tôn tạo và chăm sóc khu di tích, đền thờ và mộ chí của cụ Đồ Chiểu thể hiện tình cảm yêu mến, tự hào của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Bến Tre đối với nhà thơ tài hoa, thầy giáo mẫu mực, thầy thuốc đức hạnh này.
Suốt cuộc đời gắn bó với nhân dân Nam Bộ, đặc biệt hơn một phần tư thế kỷ sống trên đất Bến Tre, Nguyễn Đình Chiểu đã để lại cho nhân dân ở đây ảnh hưởng to lớn và một di sản tinh thần vô cùng quý báu, góp phần tạo nên truyền thống kiên cường, bất khuất của một vùng đất anh hùng. Đồ Chiểu đã dùng ngòi bút để ca ngợi các cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân, tố cáo tội ác của giặc Pháp, phê phán bọn vua quan bán nước cầu vinh, khẳng khái bất hợp tác với giặc giữ vẹn tấm lòng yêu nước thương dân… Tấm gương nhà thơ mù tỏa sáng trong tâm thức và niềm yêu mến, kính trọng của nhân dân Bến Tre. Bởi vậy, Đồ Chiểu trở thành niềm tự hào của nhân dân Bến Tre, mà Ba Tri là nơi ông đã sống và trút hơi thở cuối cùng cũng vào một ngày đầu tháng 7 (3/7/1888), thọ 66 tuổi. Nhiều con đường, trường học, bệnh viện ở Bến Tre và các thành phố lớn trong nước vinh dự mang tên Nguyễn Đình Chiểu; đặc biệt, từ năm 1946 đến 1948, tỉnh Bến Tre được đổi tên là tỉnh Đồ Chiểu.
Hiện nay, trong khu di tích có mộ của Nguyễn Đình Chiểu, mộ bà Lê Thị Điền (vợ) và mộ thi sĩ Sương Nguyệt Anh (con gái đầu của ông). Khu Di tích được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ VH,TT&DL) công nhận di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 27/4/1990. Nhằm tỏ lòng thành kính đối với Đồ Chiểu, vừa để phục vụ tham quan, nghiên cứu, giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ, năm 1999 Bộ Văn hóa - Thông tin và tỉnh Bến Tre đã đầu tư xây dựng đền thờ mới, mở rộng khu di tích (khởi công ngày 1/7/2000 và khánh thành ngày 1/7/2002), với tổng diện tích khu di tích 13.000m2. Trước cổng đền, phía trái có nhà tiếp đón các đoàn khách đến viếng; từ cổng đền đến nhà bia có sân rộng lát đá chẻ viền cỏ xanh rất đẹp, khu đền thờ trồng nhiều cây kiểng quý, được uốn tỉa công phu. Khu di tích là một hệ thống liên hoàn hài hòa với quang cảnh xanh tươi của vùng quê An Đức. Đền thờ hình tròn gồm 3 tầng mái tượng trưng cho ba nghề của cụ Đồ Chiểu (nghề dạy học, thầy thuốc và thơ văn). Tượng Đồ Chiểu được đúc bằng đồng nặng 1,2 tấn uy nghi. Nhà bia với 2 tầng mái tượng trưng cho hai thành tựu cống hiến nổi bật của Đồ Chiểu, đó là những áng thơ văn yêu nước kiệt xuất, tiêu biểu trong phong trào thơ văn yêu nước chống Pháp thế kỷ XIX và mảng văn học dân gian xuất sắc đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của thơ ca Nam Bộ…
THANH DƯƠNG HỒNG