Nhà thơ Nguyên Hồ, tức Hồ Công Hãn là lớp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam đầu tiên trưởng thành từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ông nguyên là Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Văn học nghệ thuật Phú Khánh (gồm 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa). Trong sáng tác ông được coi là "kiện tướng ca dao" trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp đến mãi sau này.
Nhà thơ Nguyên Hồ, tức Hồ Công Hãn là lớp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam đầu tiên trưởng thành từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ông nguyên là Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Văn học nghệ thuật Phú Khánh (gồm 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa). Trong sáng tác ông được coi là “kiện tướng ca dao” trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp đến mãi sau này.
|
Từ trái qua: nhà thơ Nguyên Hồ, nhạc sĩ Hoàng Thơ Huy, nhà thơ kiêm họa sĩ Đồng Xuân Lan, nhà nghiên cứu dân gian Nguyễn Thế Sang, nhà văn Võ Hồng, nhà thơ Trần Vũ Mai, nhạc sĩ Kpa Y Lăng. (1985) |
Quả là may mắn cho tôi, vào năm 1991, nhà thơ Nguyên Hồ và tôi cùng đoạt giải Nhì ở Cuộc thi sáng tác Văn học về thiếu nhi do Hội Văn học nghệ thuật Khánh Hòa phối hợp với Ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em tỉnh phát động cả thời gian dài trước đó. Cuộc thi không có giải Nhất. Ngẫu nhiên 2 tác giả đồng hạng Nhì ở cuộc thi này lại là đồng hương huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. Từ đó, tôi thân, quý mến và vô cùng kính trọng nhà thơ đàn anh Nguyên Hồ.
Ông lớn hơn tôi đúng 20 tuổi, vậy mà khi chuyện trò, nhà thơ Nguyên Hồ một mực hòa đồng như bạn bè thân thiết. Ban đầu tôi ái ngại nhưng riết rồi quen. Nhà thơ tên thật là Hồ Công Hãn, sinh ngày 21-2-1929 tại Tuy Hòa - Phú Yên. Ngoài tài sáng tác thơ ca, ông còn vẽ tranh cổ động rất đẹp và hát bài chòi khỏi chê. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp ở Phú Yên, cây bút Nguyên Hồ nổi lên là người sáng tác ca dao hàng đầu của Liên khu 5, được công chúng nể phục, nhất là việc ứng khẩu sáng tác, phổ biến tại chỗ. Nhiều người còn nhớ, đó là năm 1952, giặc Pháp muốn tiêu hủy, triệt phá sự sống vùng kháng chiến. Chúng thường xuyên cho máy bay ném bom đánh phá các công trình phục vụ sản xuất của nhân dân, như dội bom phá hoại cầu máng, lù trầm ở phía kênh Bắc và kênh Nam thuộc hệ thống thủy nông Ðồng Cam (Phú Yên). Nhằm động viên dân công ra sức khắc phục những hư hại này kịp thời khôi phục sản xuất, ngay hiện trường nhà thơ Nguyên Hồ đã ứng khẩu sáng tác và hô luôn bài chòi tại chỗ:
Thằng Tây phá máng, phá lù
Nước mương trụt xuống căm thù trào lên.
Cả công trường nhiệt liệt tán thưởng. Ðối với những thanh niên biếng nhác, chưa giác ngộ, chưa tích cực trong phong trào phục vụ kháng Pháp, nhà thơ Nguyên Hồ liền ứng khẩu:
Ăn chình mới biết chình tanh
Gần anh mới biết rằng anh giống chình
Nhớt xương, nhớt thịt, nhớt mình
Ðả thông chẳng được, phê bình chẳng nghe
Yêu anh hổ (thẹn) với bạn bè
Em về em quyết trả chè (trà), không ưng…
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, ông tập kết ra Bắc, trải qua các công việc: Phó Chủ nhiệm Nhà Xuất bản Phổ thông, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Văn hóa - Nghệ thuật thuộc Bộ Văn hóa Thông tin. Ông vừa làm công tác quản lý, lãnh đạo vừa sáng tác với khối lượng lớn; trong đó, nhiều nhất vẫn là ca dao, truyện thơ và diễn ca. Những năm sau ngày thống nhất Tổ quốc 1975, ông về lại quê nhà, đảm trách Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Văn học nghệ thuật Phú Khánh (gồm 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa), nhà thơ Nguyên Hồ đã có nhiều công lao trong việc xây dựng phong trào văn học nghệ thuật địa phương và kiên trì thi pháp ca dao trong sáng tạo văn nghệ. Nói về sáng tác của ông, nhà văn Nguyễn Gia Nùng khẳng định “…Câu thơ giàu bản sắc dân gian truyền thống, nhưng luôn luôn tươi mới”(Tuần báo Văn Nghệ, ngày 2-7-2011). Những tác phẩm chính của Nguyên Hồ đã xuất bản, như: Áo rách tim vàng (truyện thơ, 1956); Nhắn nhủ đôi lời (tập ca dao, 1958); Yêu nhau xin nhớ lời nhau (tập ca dao, 1958); Cô gái Phú Yên (truyện thơ, 1963); Dân quân làng Triều (truyện thơ, 1965); Bài ca dâng Ðảng (diễn ca); Ngọc càng mài càng sáng (diễn ca, 1970); Bài ca bốn ngàn năm lịch sử Việt Nam (sử ca, 1975); Cu Tý gặp Long Vương (truyện thơ, 1994); Cuộc đời và trang viết (thơ văn hợp tuyển, 2007).
Trong cuộc đời sáng tác văn học ông từng đạt giải ở nhiều cuộc thi, giới văn nghệ cả nước còn gọi ông là “kiện tướng ca dao”. Vậy nhưng thi thoảng có những lão nông quê nhà gặp lại chào ông bằng cách đọc những câu ca dao Nguyên Hồ từng sáng tác cách hơn nửa thế kỷ mà tác giả quên béng, làm ông cảm động và vui mừng khôn xiết. Nhà báo Ðặng Minh Phương, người cùng thời với Nguyên Hồ cho rằng “ca dao của ông rất tự nhiên như lời ăn tiếng nói của nhân dân, lưu loát, giàu hình ảnh, rất dễ đi vào lòng người”. Còn sinh thời nhà thơ lớn Chế Lan Viên đã từng nhận xét: “Nguyên Hồ là cây bút lão luyện ca dao hồi kháng chiến, nay vẫn dẻo dai và càng khởi sắc” (Tạp chí Văn học, tháng 7-1961). Bởi thế, trước đây trong giới bạn đọc cả nước đã hình thành câu ca truyền khẩu như đóng đinh tính cách những nhà sáng tác nổi bật ở các thể loại thời bấy giờ:
“Thơ Tố Hữu, nhạc Văn Cao
Nguyễn Tuân tùy bút, ca dao Nguyên Hồ”.
16 tuổi ông bắt đầu tham gia kháng chiến và cũng từ ấy ông sáng tác thơ ca. Nay 86 tuổi trang viết cuộc đời Nguyên Hồ đã khép lại. Gần 70 năm cầm bút nhà thơ Nguyên Hồ luôn hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, ông tạo ra một miền ca dao tươi đẹp vĩnh hằng trong lòng bạn đọc hôm qua, hôm nay và lưu lại cho mai sau.
NGUYỄN TƯỜNG VĂN