Tôi nhiều lúc cứ lẩn thẩn, liệu tiếng Việt có còn là tiếng Việt nữa hay không, khi mà hằng ngày người Việt vẫn không ngừng đổ vào đấy đủ các thứ ngôn ngữ, từ tiếng Anh, tiếng Pháp đến tiếng Nga, tiếng Tàu... Sự du nhập những từ nước ngoài vào ngôn ngữ Việt có mặt tích cực là làm phong phú thêm tiếng mẹ đẻ, nhưng sử dụng những từ nước ngoài đã có từ tương đương trong tiếng Việt thì liệu có nên chăng?
Tôi nhiều lúc cứ lẩn thẩn, liệu tiếng Việt có còn là tiếng Việt nữa hay không, khi mà hằng ngày người Việt vẫn không ngừng đổ vào đấy đủ các thứ ngôn ngữ, từ tiếng Anh, tiếng Pháp đến tiếng Nga, tiếng Tàu... Sự du nhập những từ nước ngoài vào ngôn ngữ Việt có mặt tích cực là làm phong phú thêm tiếng mẹ đẻ, nhưng sử dụng những từ nước ngoài đã có từ tương đương trong tiếng Việt thì liệu có nên chăng?
|
Trong tiết dạy tiếng Việt ở Trường DTNT Đạ Tẻh. |
Câu hỏi này đã có vị giáo sư người Mỹ trả lời giúp. Trong một lần tham dự buổi tọa đàm khoa học được tổ chức tại Resort Hoàng Anh Gia Lai (TP Đà Lạt), cũng dịp đầu năm mới, tôi đặc biệt chú ý đến bài tham luận của Giáo sư Kim Tơk Chung, vì những luận cứ khoa học hết sức thuyết phục và sắc sảo. Chủ trì buổi tọa đàm giới thiệu ông là người Mỹ, nhưng tôi vẫn ngờ ngợ rằng, ông là người Mỹ, gốc Hàn? Thế rồi, khi buổi tọa đàm kết thúc và mọi người bắt đầu vào tiệc, nhìn thức ăn đã được bày sẵn trước đó, ông buột miệng bằng tiếng Hàn: “Mơ xi ku na!” (thức ăn ngon quá!), thì sự ngờ ngợ của tôi đã có lời giải. Tôi biết chắc Giáo sư là người gốc Hàn Quốc, nên đã chủ động đến chào ông. Bởi tôi vốn là cựu sinh viên chuyên ngành Hàn Quốc học, nên cũng biết đôi chút về tiếng Hàn. Giáo sư thật sự xúc động mạnh và đã bật khóc. Ông bảo: “Ở một nơi xa xôi như Đà Lạt, tôi không ngờ lại có người nói được tiếng nước tôi!”.
“Tiếng nước tôi” và “tiếng Hàn Quốc” giống nhau về mặt ngữ nghĩa, song lại khác xa về góc độ tình cảm. Vì “tiếng nước tôi” chính là “linh hồn dân tộc tôi”. Cách sử dụng từ ngữ của giáo sư đã tạo rất nhiều thiện cảm trong tôi. Ông kể, ông rời Hàn Quốc sang Mỹ định cư từ lúc còn nằm trong bụng mẹ. Hiện tại, ông mang quốc tịch Mỹ. Tuy vậy, chỉ khi thật sự cần thiết, ông mới sử dụng tiếng Anh và luôn dùng đúng nơi, đúng chỗ. Có nhiều con em người Hàn Quốc sinh ra tại Mỹ, mặc dù chưa biết Hàn Quốc là đâu, nhưng tiếng Hàn luôn là ngôn ngữ chính, bên cạnh tiếng Anh” - Giáo sư Kim cho biết.
Theo Giáo sư Kim Tơk Chung, một dân tộc chỉ thật sự là nó, một khi người dân của dân tộc đó nói được bằng chính ngôn ngữ dân tộc mình. Thế giới ngày càng phẳng, thì ý thức gìn giữ bản sắc dân tộc lại càng trở nên quan trọng. Bởi vậy, người Hàn Quốc dù sinh sống ở đâu, luôn có một tâm cảm chung. Đó là hướng về cội rễ; đặc biệt, về ngôn ngữ mẹ đẻ. Mỗi người Hàn chỉ cần phát hiện một phần, dù rất nhỏ những giá trị tinh thần của ông cha (như việc nghe tôi nói tiếng Hàn chẳng hạn), cũng được xem là một việc rất tốt để trả nghĩa tổ tiên. Chả thế mà khi phóng chiếu tâm thức dân tộc Việt vào Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du, học giả Phạm Quỳnh đã nói một câu bất hủ: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn!”, cũng vì một lẽ ấy.
Soi chiếu những sẻ chia của vị giáo sư người Mỹ, gốc Hàn vào tiếng Việt và con người Việt, tôi nhận thấy tiếng Việt đang dần bị biến dạng và con người Việt thì lại quá tự ti trong việc tiếp thu văn hóa nước ngoài. Chỉ cần ngồi trước vô tuyến truyền hình hoặc lật giở vài trang sách, báo một lúc là chúng ta có thể “lôi ra” những câu, chữ Tây không ra Tây, Ta chẳng ra Ta, mà Tàu cũng không ra Tàu. Tỷ như: Fan hâm mộ (đã fan sao còn hâm mộ?), một phong cách style (đã nói phong cách lại còn thêm style chi vậy?). Trong giao tiếp hàng ngày, chẳng biết tự bao giờ người Việt lại có thói quen khi nói thường chêm vài từ tiếng Anh vào và hậu quả là ngày càng xuất hiện tràn lan những từ nửa Ta nửa Tây, kiểu: Cực hot (nóng), cực cool (mát, lạnh), tuổi teen (tuổi mới lớn)... Nguy hại ở chỗ, vô hình trung tạo ra tâm lý đám đông kỳ thị, cho rằng mình ở một đẳng cấp cao hơn khi nói tiếng nước ngoài và coi đấy là trào lưu thời thượng. Nếu chẳng may ai đó lỡ miệng nói “căng thẳng thần kinh”, lập tức sẽ bị đám đông người xung quanh cho là nhà quê, nên phải tự “phố hóa” mình bằng cách nói stress, cũng như thay vì nói câu lạc bộ thì phải nói club, hoặc gọi kiosque thay cho quầy sạp, hay nói restaurant thay vì phải nói nhà hàng... để nghe cho nó “oách”! Thói quen nói và viết tiếng Việt xen lẫn vài từ tiếng Anh hoặc tiếng Pháp không chỉ xảy ra ở những nơi tập trung đông du khách nước ngoài như sân bay, khách sạn, nhà hàng, trung tâm lữ hành..., mà kể cả những nơi đèo heo hút gió, tiếng nước ngoài vẫn len lỏi chưng ra mọi lúc mọi nơi, trong mọi ngữ cảnh mà tiếng Việt hoàn toàn đủ khả năng diễn đạt. Có điều, không phải ai trong số này cũng giỏi tiếng Anh, tiếng Pháp. Phần đông chỉ cố dùng vài từ tiếng nước ngoài để chứng tỏ mình Tây và để “hù” người khác. Đã thế, nhiều người cho đây là một cách hiện đại hóa tiếng Việt. Nhưng hiện đại kiểu ấy thì... tôi thà mang tiếng lạc hậu để khỏi làm hỏng tiếng Việt.
Thiết nghĩ, đã đến lúc cần đưa ra một quy chuẩn tiếng Việt bằng luật hoặc pháp lệnh, để tránh tình trạng sử dụng tiếng Việt một cách bừa bãi, lộn xộn như hiện nay.
TRỊNH CHU