Từ hàng ngàn năm trước, trên vùng đất Tây Nguyên đã xuất hiện và lưu truyền một loại khí cụ độc đáo, mang ý nghĩa nghệ thuật và văn hóa quý giá, đó là loại nhạc khí thuộc hệ gõ mà người ta thường gọi là đàn đá, người M'Nông gọi là Goong lũ (tức là cồng đá)...
Từ hàng ngàn năm trước, trên vùng đất Tây Nguyên đã xuất hiện và lưu truyền một loại khí cụ độc đáo, mang ý nghĩa nghệ thuật và văn hóa quý giá, đó là loại nhạc khí thuộc hệ gõ mà người ta thường gọi là đàn đá, người M’Nông gọi là Goong lũ (tức là cồng đá). Chỉ ở Tây Nguyên, nhất là vùng tiếp giáp với miền Đông Nam bộ mới có những bộ đàn đá cổ xưa, mang giá trị truyền thống và nghệ thuật âm nhạc cổ đại tiêu biểu và sâu sắc.
|
Đàn đá Tây Nguyên. Ảnh: Thanh Toàn |
Ở Tây Nguyên, bộ đàn đá thời tiền sử gồm 11 thanh được phát hiện đầu tiên vào năm 1949 tại tỉnh Đắk Lắk, sau đó được đưa về Pháp nghiên cứu và công bố kết quả trên Tạp chí Âm nhạc học. Bộ đàn đá này có niên đại cách ngày nay trên dưới 2500 năm, hiện trưng bày ở Bảo tàng Con Người tại Paris. Bộ đàn đá thứ hai phát hiện năm 1956, trong chiến tranh chống Mỹ, hiện trưng bày tại New York. Điều này khẳng định thêm giá trị về lịch sử văn hóa hàng ngàn năm, giá trị về nghệ thuật âm nhạc cổ đại của đàn đá Tây Nguyên. Những bộ đàn đá cổ xưa ấy không những được người Tây Nguyên gìn giữ, bảo tồn mà các dân tộc trên thế giới như những nền văn hóa cường quốc Mỹ, Pháp quan tâm và ngưỡng mộ; nó xứng đáng là di sản văn hóa nhân loại.
Trong nền văn hóa dân gian, nhất là các dân tộc phía Bắc, nhạc cụ gõ cổ xưa nhất là trống đồng, hay còn gọi là trống đồng Đông Sơn, có niên đại cách ngày nay từ 2500 - 2000 năm (trước công nguyên). Cùng với giai đoạn lịch sử ấy, người Tây Nguyên bản địa cũng đã chế tác nhạc cụ đá hàng ngàn năm tuổi. Ở Đắk Nông, năm 1993 đồng bào M’Nông phát hiện bộ đàn đá tại suối Đăk Kar (sau này gọi là đàn đá Đăk Kar - lấy tên theo địa danh của suối), đã được các nhà nghiên cứu giải mã, tái hiện dòng lịch sử quay về với Tây Nguyên thời cổ đại cách ngày nay khoảng 2500 năm; cho thế hệ đương đại một góc nhìn toàn cảnh về di sản văn hóa độc đáo mà người tiền sử trên vùng đất Tây Nguyên đại ngàn đã sáng tạo và lưu truyền đến ngày nay. Đàn đá Đăk Kar được làm từ chất liệu đá sừng Cordierit, qua gia công ghè đẽo, chế tác người tiền sử đã tạo ra bộ đàn đá hoàn chỉnh gồm 3 thanh: thanh Tru (cha), thanh T’rơ (mẹ) và thanh Tê (con). Các thang âm của bộ đàn đá này hoàn toàn tương đồng với thang âm cồng chiêng Tây Nguyên.
Đàn đá thường được hình thành từ nhiều thanh, làm bằng đá sừng, hoặc đá nham... Cách thức ghè đẽo khá tinh xảo và chau chuốt; kích thước dài, ngắn, dày, mỏng khác nhau để cho được các thang âm trầm bổng, thánh thót khi gõ. Thanh đá dài, to, dày thường có âm trầm và trong. Ngược lại thanh đá ngắn, nhỏ, mỏng thì tiếng thanh... Kích thước của đàn đá thường khá dài nên ít được treo mà được các nghệ nhân đặt nằm song song nhau trên một giá đỡ ngang trong quá trình diễn tấu. Qua hàng ngàn năm, dù đã chuyển sang sử dụng nhạc cụ đồng như cồng và chiêng, nhưng người Tây Nguyên vẫn giữ tâm hồn tinh túy, âm hưởng mộc mạc của nhạc cụ thời tiền sử, thể hiện phong tục tập quán chơi đàn đá phổ biến của đồng bào M’Nông cổ xưa, được gìn giữ qua nhiều thế hệ như một sự phục hồi và tiếp nối truyền thống văn hóa dân tộc.
Gần đây, tại huyện Đắk Mil (Đắk Nông) người ta lại phát hiện thêm một bộ đàn đá 16 thanh. Kiểu dáng và hình thức chế tác tinh xảo, đẹp mắt. Theo Viện Khoa học xã hội vùng Nam bộ, bước đầu nhận định bộ đàn đá này được người tiền sử chế tác và sử dụng cách ngày nay khoảng 3000 năm, ở giai đoạn lịch sử thời kỳ đá mới. Hiện nay, ngành văn hóa đang tham mưu, đề xuất thành lập hội đồng thẩm định giá trị của bộ đàn đá. Hy vọng sẽ làm sáng tỏ diện mạo văn hóa âm nhạc truyền thống của người tiền sử và bảo lưu bản sắc văn hóa tinh túy của nền văn hóa âm nhạc cổ xưa ở Tây Nguyên, phát huy hòa quyện cùng dòng nhạc đương đại. Ngoài ra, ở Lâm Đồng, bộ sưu tập đàn đá gồm 43 thanh, phát hiện trên địa bàn huyện Di Linh cũng đã được Viện Phát triển bền vững vùng Đông Nam bộ giám định, có niên đại khoảng 2.000 năm cách ngày nay. Đây là bộ sưu tập đàn đá thời tiền sử có số lượng thanh âm lớn nhất trong các sưu tập đàn đá ở Tây Nguyên. Người tiền sử dùng các loại đá có sẵn ngay trên địa bàn sinh sống để tạo ra đàn đá. Với những phiến đá thô, vô tri, nhưng họ đã nghiên cứu và chế tác ra khí cụ để những thanh đá ấy cất lên âm hưởng đại ngàn Tây Nguyên từ ngàn xưa vẫn còn vang mãi. Âm thanh của đàn đá vừa sống động, vừa vui nhộn và trầm lắng, cả nhịp nhàng lẫn du dương khó tả... Thế mới biết ở buổi đầu lịch sử hoang sơ, vừa đấu tranh sinh tồn với môi trường khắc nghiệt của thiên nhiên, nhưng tổ tiên người Tây Nguyên ngày nay đã khám phá, gửi gắm biết bao điều kỳ lạ, hữu tình vào thế giới kỳ bí của vùng đất hùng vĩ.
Âm hưởng của đàn đá đã được giới nghiên cứu âm nhạc nhận định như biểu hiện tâm tư của con người, là yếu tố kết nối giữa vũ trụ, con người, thần linh. Khi nghệ nhân diễn tấu, ở thang âm cao, âm thanh thánh thót, vang vọng; ở thang âm trầm, âm vang như khúc du dương của dòng thác đổ, của gió Tây Nguyên đại ngàn rừng núi. Người Bana, Gia Rai, Êđê, M’Nông... quan niệm, âm thanh của đàn đá là mạch huyết nối liền cõi âm với cõi dương, giữa con người với trời đất, thần linh, giữa hiện tại với quá khứ.
Có thể khẳng định rằng, tổ tiên của nhạc cụ truyền thống xuất hiện đầu tiên ở Tây Nguyên là đàn đá, khởi nguồn của các nhạc cụ khác, được lưu truyền qua nhiều thế hệ; có giá trị văn hóa sâu sắc bổ sung vào sưu tập nhạc cụ cổ đại của dân tộc Việt Nam, đóng góp nguồn tài liệu âm nhạc mới cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học về các nền văn hóa nghệ thuật âm nhạc truyền thống cổ xưa ở Tây Nguyên.
N.A.BẰNG