Chị Cao Thị Quế Hương với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn

09:03, 31/03/2016

Với Đà Lạt - Lâm Đồng, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có rất nhiều kỷ niệm. Anh đã từng dạy học ở B'Lao, từng ghé lên Đà Lạt hát say sưa trong Viện Đại học Đà Lạt, Trường Tư thục Việt Anh; từng gặp gỡ nhiều người, từng tham gia một chuyến đi sáng tác âm nhạc ở Di Linh, Cầu Đất, Xuân Trường và để lại những ấn tượng khó quên. Một trong những người phụ nữ ở Đà Lạt mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất quý mến, trân trọng, đó là chị Cao Thị Quế Hương.

Với Đà Lạt - Lâm Đồng, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có rất nhiều kỷ niệm. Anh đã từng dạy học ở B’Lao, từng ghé lên Đà Lạt hát say sưa trong Viện Đại học Đà Lạt, Trường Tư thục Việt Anh; từng gặp gỡ nhiều người, từng tham gia một chuyến đi sáng tác âm nhạc ở Di Linh, Cầu Đất, Xuân Trường và để lại những ấn tượng khó quên. Một trong những người phụ nữ ở Đà Lạt mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất quý mến, trân trọng, đó là chị Cao Thị Quế Hương.
 
Chân dung nhạc sĩ Trịnh Công Sơn những ngày cuối đời (ảnh do Trần Ngọc Trác chụp vào ngày 18/3/2001 tại nhà riêng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn)
Chân dung nhạc sĩ Trịnh Công Sơn những ngày cuối đời (ảnh do Trần Ngọc Trác chụp vào ngày 18/3/2001 tại nhà riêng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn)
Chị Cao Thị Quế Hương từng đảm đương chức trách Hội phó Hội Phụ nữ tỉnh, rồi Phó Chủ tịch UBMTTQVN tỉnh Lâm Đồng trước khi nghỉ hưu. Chị cho biết: “Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”. 
 
Khi tôi về Đà Lạt nghỉ hè, hai anh Trịnh Công Sơn và Trần Viết Ngạc cũng lên Đà Lạt để phổ biến “Ca khúc da vàng”. Các anh đến thăm tôi tại nhà và ngỏ ý muốn được tổ chức các đêm hát cho đồng bào Đà Lạt nghe.
 
 Ngay đêm đầu tiên, hai anh vừa lên Đà Lạt, một người bạn của Trịnh Công Sơn đã tổ chức cho anh trình diễn tại sân nhà mình, đối diện cổng Trường Bùi Thị Xuân. Đêm “làm nháp” đầu tiên cũng đã gây xúc động trong số bạn bè quen biết ở Đà Lạt. Lúc bấy giờ, em gái tôi là Cao Thu Cúc đang dạy học ở trường Trung học Tư thục Việt Anh, lại đang theo học Khoa Việt - Hán Trường Đại học Đà Lạt đã xin phép thầy Lê Phỉ, Hiệu trưởng Trường Tư thục Việt Anh tổ chức đêm nhạc Trịnh Công Sơn. Được thầy Lê Phỉ đồng ý, chúng tôi chia nhau đi rủ rê, cổ động mọi người đi nghe nhạc Trịnh Công Sơn tại trường Việt Anh.
 
Đến đêm trình diễn, sân trường đông nghẹt người. Dưới ánh đèn bình thường, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ôm đàn hát, khán giả đứng xung quanh sân. Sau mỗi bài hát, đồng bào vỗ tay giòn giã. Nhiều người đi chợ, đi làm về cũng đứng lại lắng nghe, rồi dần dần bước vô sân trường. Khi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hát đến bài “Ru con”:  “Ngủ đi con, ngủ đi con, đứa con da vàng của mẹ… Mẹ mang đầy bụng mẹ bồng trên tay… Ru con ru đã bao lần… ru con viên đạn làm hồng vết thương… Hai mươi năm đàn con đi lính đi rồi không về…”, tôi nghe có ai đó nấc lên. Đêm hát thành công ngoài dự đoán, cả người hát và người tổ chức đều rất phấn khởi. 
 
Ba đêm sau, em gái tôi lại xin phép Viện trưởng Viện Đại học Đà Lạt tổ chức một đêm nhạc Trịnh Công Sơn tại giảng đường Spellman cho sinh viên Đại học Đà Lạt nghe. Anh em sinh viên đến dự rất đông, có cả người ngoài viện đại học cũng vào dự. Người nghe ngồi chật cả giảng đường. Giữa hai bài hát, các em nữ hướng đạo mặc đồng phục hướng đạo sinh, lên tặng nhạc sĩ bó hoa hồng và mấy viên xí muội!
 
Sau mùa hè đó, tôi không có dịp gặp lại cả hai anh. Rồi tôi thi tốt nghiệp Đại học Sư phạm, chọn nhiệm sở về dạy học tại Trường nữ Trung học Đoàn Thị Điểm ở Cần Thơ. Sau Tết Mậu Thân năm 1968, tôi bỏ dạy và thoát ly hoạt động nội thành Sài Gòn cho đến tháng 3 năm 1970 thì tôi bị bắt cùng với 21 anh em sinh viên, học sinh khác, trong đó, có sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm, Chủ tịch Tổng hội Sinh viên lúc bấy giờ và cả anh Nguyễn Ngọc Phương, người chồng sắp cưới của tôi… Khi chúng tôi được đưa qua nhà tù Chí Hòa để chờ ngày ra tòa án mặt trận vùng 3 chiến thuật, một hôm, tôi được kêu đi thăm nuôi và bất ngờ được gặp anh Nguyễn Ngọc Phương. Anh Phương đưa cho tôi một bài hát chép tay, có kẻ nhạc và chữ viết của anh Trịnh Công Sơn đề tặng chị Quế Hương và anh Nguyễn Ngọc Phương. Được biết, anh Trịnh Công Sơn đã nhờ anh Trần Viết Ngạc tìm cách chuyển bản nhạc này vào nhà tù Chí Hòa, khi anh Ngạc vào thăm giáo sư Trần Hữu Khuê cũng bị giam giữ tại đây. Tôi cầm bản nhạc, đọc lời: “Toàn thân em đã có vết bầm, trên da anh cực hình tra tấn. Trên thân chị nhục nhằn đau thương. Trên bàn tay chúng ta bước đi trên mặt tôi đòi. Trong tim mỗi người là một đồng lúa mới. Ta hiên ngang bên thú mặt người. Chặt cùm xích cho quê hương mỉm cười…”. Sau khi ra tòa, tôi được tạm phóng thích cùng 10 anh chị em khác. Chúng tôi hòa nhập vào phong trào đấu tranh của sinh viên, học sinh và đồng bào Sài Gòn đang dâng cao và tôi đã cùng bạn bè hát thuộc bài hát này. Thật đáng tiếc, là sau nhiều năm cuộc sống và tranh đấu có nhiều xáo trộn, bài hát viết tay do nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gởi tặng tôi không còn giữ được, nhưng lời ca và nét nhạc thì tôi không quên”.
 
Về sự ra đời bài hát “Tình khúc ơ bai”, chị Cao Thị Quế Hương tâm sự: “Năm 1986, tôi làm việc ở Tỉnh hội Phụ nữ Lâm Đồng. Lúc ấy, chị Nguyễn Thị Hải là Hội trưởng có chủ trương mời các nhạc sĩ sáng tác ca khúc về phụ nữ Lâm Đồng. Ban Thường vụ Tỉnh hội đánh giá phong trào phụ nữ của tỉnh nhà trong chặng đường hàng chục năm qua đã xuất hiện nhiều gương hy sinh cao cả, chiến công dũng cảm, những tấm lòng trung hậu, những tình cảm đẹp đối với quê hương đất nước…, những nét đẹp đó cần các văn nghệ sĩ xây dựng thành hình tượng trong văn học nghệ thuật.
 
Chúng tôi lên kế hoạch chi tiết cho việc tổ chức một đợt sáng tác ca khúc viết về phụ nữ và được Tỉnh hội thông qua. Tôi được các chị phân công trực tiếp đi mời các nhạc sĩ. Riêng Lâm Đồng thì mời các nhạc sĩ: Mạnh Đạt, Đình Nghĩ, Sóng Trà, Duy Thành, Phạm Duy Thanh… Ngoài tỉnh, thì mời các nhạc sĩ: Phạm Trọng Cầu, Trịnh Công Sơn, Hoàng Hiệp, Miên Đức Thắng, Trần Long Ẩn…
 
Tháng 3 năm 1987, chúng tôi đón đoàn nhạc sĩ từ Sài Gòn lên Đà Lạt kết hợp với các nhạc sĩ trong tỉnh Lâm Đồng đi tham quan thực tế để tìm nguồn cảm hứng sáng tác. Khi đến thăm thôn Đồng Đò của bà con đồng bào dân tộc K’Ho ở xã Đinh Lạc, huyện Di Linh, các anh đã có dịp nhìn thấy những vườn cà phê xanh rợp bóng bao quanh những ngôi nhà sàn còn thơm mùi nhựa thông. Gia đình chị Ka Nheo, Hội trưởng Hội Phụ nữ xã Đinh Lạc đem rượu cần mời khách. Các già làng và các thiếu nữ cũng đến dự, ngồi quanh ché rượu cần. Cần rượu được chuyền đi vòng quanh, khách trước rồi đến chủ, từ chủ rồi qua khách. Hương vị rượu cần nồng ấm dịu dàng, tiếng hát của các anh lại cất lên trong căn nhà sàn ấm cúng len qua những vườn cà phê đang trĩu quả. Nhạc sĩ Đình Nghĩ hát bài “Ôi dòng suối Dariam” và “Hoa Lang Bian” được mọi người nhiệt liệt hoan nghênh.
 
Khi đoàn ra về, anh Trịnh Công Sơn mời các thiếu nữ K’Ho ra chụp hình, các cô níu tay nhau, cười khúc khích và nói: “ơ bai, ơ bai…”.
 
Chị Ka Nheo giải thích: “Ơ bai” có nghĩa là “Không chịu đâu”.
 
Từ chuyến đi thực tế đó, ba tháng sau, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có bài “Tình khúc ơ bai ”, Phạm Trọng Cầu viết bài “Ơi, cô gái Tây Nguyên”, Hoàng Hiệp sáng tác bài “Hoa không quên” và Miên Đức Thắng với bài “Tằm ơi, tơ hãy đong đầy”.” 
 
Năm tháng qua đi, cuộc đời dâu bể. Những nhạc sĩ ngày ấy đã ra đi nhưng những ca khúc của các anh, kỷ niệm của các anh vẫn còn đọng lại trong lòng mọi người, với cuộc đời.
 
Thấm thoắt đã 15 năm kể từ ngày nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào chốn vĩnh hằng, những gì anh để lại qua từng ca khúc vẫn còn hiện hữu trong hàng triệu triệu trái tim người. Thủ đô Hà Nội, Huế, Đà Nẵng… đã đã đặt tên đường Trịnh Công Sơn như một sự ghi nhận những gì mà anh đã đóng góp cho quê hương Việt Nam yêu dấu. Với chị Cao Thị Quế Hương thì những kỷ niệm với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vẫn còn đó những hoài niệm không bao giờ quên.
 
TRẦN NGỌC TRÁC