Lời hát lại tiếp tục rải ra, chen trong sự ồn ào, va vào lưng - vai - môi - mắt… người, lèn qua tà áo, váy ngắn váy dài và cả trùng trùng bước chân chật nêm của người đi chợ. Năm mét cách đó là một cái ca nhựa to được đặt trên một bệ gỗ nhỏ để mọi người tiện tay dừng lại bỏ tiền vào.
“Chợt nghe mùa thu bay trên trời cao/
Còn ai giữa mênh mông đời mình”…
“Anh dìu em về / Đường về nhà em …/ Mưa nhạt mưa nhòa/ Mưa đổ…”…
Lời hát lại tiếp tục rải ra, chen trong sự ồn ào, va vào lưng - vai - môi - mắt… người, lèn qua tà áo, váy ngắn váy dài và cả trùng trùng bước chân chật nêm của người đi chợ. Năm mét cách đó là một cái ca nhựa to được đặt trên một bệ gỗ nhỏ để mọi người tiện tay dừng lại bỏ tiền vào. Người kia ngồi bệt dưới đất hát, đơn chiếc, cứ hát say sưa, không để ý đến cái ca nhựa lẫn người qua.
|
Ông an nhiên lặng lẽ ca ở chợ Tùng Nghĩa. Ảnh: N.H.T |
“Tiếng ca” bán rong
“Đường nhân gian đầy ải thương đau/ Ai chưa qua chưa phải là người/ Trong thói đời cười ra…”(*). Lời của một bài khác nối tiếp sau khi bài kia dứt chừng mười phút và ông đã cầm cái chai nhựa Cocacola chứa nước nấu ở nhà mang theo uống vào một ngụm lấy giọng.
Ông sửa lại miếng ván ngồi bằng gỗ, rồi đưa tay chỉnh cái amply bé con cho âm thanh vừa ý mình hơn.
“Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng dở dang/ Yêu ai cũng không thành/ Nên giận đời quên…”. Bài khác nữa đã vang vang, dù bài vừa kết thúc cũng như bao nhiêu bài trước đó nữa và muôn năm qua không hề có tiếng vỗ tay nào. Nhiệm vụ của ông là hát, như một sứ phận tự gánh vào. Nhạc sống hẳn hoi, người hát bằng xương bằng thịt, không bao giờ có playback, hay dùng kỹ thuật gian xảo để lừa người nghe.
Nắng chói chang đổ xuống khoảng đất trống ngoài chợ lồng, làm ông ngồi hát ở đó cô độc hơn trong nắng. Giữa chợ búa mà sao hình ảnh nó cô tịnh quá. Chiếc ca nhựa đựng tiền ở tít chỗ kia lẻ loi, cứ thế lặng lẽ, nhiều khi nó như không là một bộ phận của ông. Tôi đi lại đảo mắt nhìn qua. Toàn những tờ bạc lẻ năm trăm đồng, một ngàn, hai ngàn… đều nhàu.
Nhưng ông cho rằng mình không phải là ăn mày. Khi ai bảo ông là ăn mày, ông cho là họ xúc phạm âm nhạc và tâm hồn nghệ sĩ. Ông khuyên họ hãy công bằng, bình tâm, và quan sát rõ cuộc đời. Tôi đã đi theo ông như thế từ mười lăm năm qua, từ cái chợ Tùng Nghĩa này đến chợ Di Linh, Ka Đô, Đinh Văn, và các chùa chiền ở Lâm Đồng vào những mùa Phật đản, lễ, tết. Cứ mỗi khi có nhu cầu đắm mình trong nhạc Bolero là tôi tìm theo ông để nghe. Dòng nhạc này phải nghe từ miệng những ca sĩ giang hồ như ông mới thấy hết cái vĩ đại của nó, dân gian đến tận cùng, “nông nghiệp” đến rễ đến sình, buồn vô biên, thấu trời thấu đất.
Ông cứ hát như thế kể từ năm một chín chín lăm đến giờ. Hát tám tiếng mỗi ngày. Hát bài nọ nối bài kia, đến độ có người xót ruột khuyên nên dừng hát khi sân chợ vắng khách cũng cứ hát. Mỗi ngày hát một trăm đến một trăm năm chục bài. Dĩ nhiên nhạc của những ông hoàng viết Bolero Việt, từ Lam Phương, Hoàng Thi Thơ, Nhật Ngân, Trần Thiện Thanh, Chế Linh, Y Vân, Trường Sa đến Vinh Sử, Ngọc Sơn… Bolero là tâm hồn đơn giản của ông, gu nhạc của ông, nó chở tự tình tha nhân dân dã, chúng sinh bình thường.
Nếu thành tâm với âm nhạc, tận hiến với âm nhạc, chuyên nghiệp với cầm ca thì ông là hiện thân đích thực, trọn vẹn chứ không phải các ca sĩ chờ tối về mới xuất hiện ở Sài Gòn, Hà Nội nơi các chương trình sân khấu son phấn và ca một bài rồi biến đi ngay sau đấy đâu. Nếu được mời, ông sẽ lên sân khấu hát như người khác, nhưng người khác thì sống vạn kiếp nữa cũng không đủ nội lực tự tin để ngồi xó chợ mà ca say nhẹ tênh như ông. Họ kiếm sống bằng âm nhạc, và ông cũng thế. Giá trị con người là ngang nhau, và không không gian ca hát nào lớn hơn không gian ca hát nào, khi mà tiếng ca vang lên là để tìm đến nhân sinh, mang yêu thương về với đồng loại.
Ông thề rằng, tiền là cái cần, nhưng “Được hát”, “Có người nghe mình ca”, là điều sướng nhất. Nếu không vậy, ông không yêu nghề và hát ròng rã năm tháng như thế được.
Ca sĩ của bá tánh
Trong căn nhà ông trọ, với giá mười lăm ngàn một ngày đêm. Ông tâm sự đời ông là thế. Chỗ nào có chợ, có vùng quê là ông cứ đi. Đến chợ nào là ông thuê nhà trọ ở gần cái chợ đó để ở. Như trước khi “đỗ” ở chợ Tùng Nghĩa này, ông hát ở chợ Thạnh Mỹ bên Đơn Dương. Và trước khi ở chợ Thạnh Mỹ, ông hát qua chợ Ka Đô, rồi chợ Di Linh, Bảo Lâm, Lâm Hà, ngã ba Hòa Ninh. Những năm trước đó nữa là các chợ ở Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Biên Hòa, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Gia Nghĩa, Gia Lai. Ông hát từ Phan Rang, Song Mỹ, Quảng Sơn, Sông Pha, rồi leo đèo lên Dran, Lạc Lâm của xứ Lâm Đồng trên cao nguyên. Có khi ông hát dọc theo các quốc lộ 1A, 20, 21, 14, 19… Dọc theo các con lộ ấy, chỗ nào có chợ là có ông. Nhưng có những khi nhớ những chợ đã qua, vì lâu ngày không trở lại, ông nhảy xe đò tìm về với nó để hát ít ngày rồi quay lại ngôi chợ xác định “hạ trại” lâu.
Ông nhận ra dân cày là người hay nghe ông hát, nghe nghiêm túc nhất. Không chỉ tôi, mà ông nhận ra nhiều gương mặt nông dân thân quen vào những buổi cầm ca ở chợ, dù không hề biết tên họ. Có người vừa nhìn ông vừa nghe, có người đứng im vậy nghe mà không nhìn vào đâu cả. Không hiếm khi ông nhìn thấy có những người mặc đồ lính thường đứng lại nghe ông hát rất lâu, tỏ vẻ yêu quí, và bỏ cả tiền vào ca. Nghệ thuật là không biên giới, xuyên lòng người.
Nhìn cảnh ấy, tôi chỉ biết cầu mong cho yêu thương trở về với hết thảy chúng sinh, tràn đầy, cùng phận người trên mặt đất. Ông hát về cuộc đời, cõi nhân sinh, tự tình con người, vì nhạc hay, cái đẹp, chứ chẳng hơi đâu để ý đến thời cuộc còn bồng bềnh trên thế gian.
Thì cũng như những lần ông đi hát ở công trình thủy điện Hàm Thuận - Đạ Mi, những công nhân xa nhà sống trong lều ở giữa rừng quí ông vô cùng. Họ mời ông vô nhậu, họ đãi ông ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều, ăn tối. Họ mời ông ngủ lại. Có lần, Tết về, ông ca bài Xuân Này Con Không Về, ông thấy mấy cậu thanh niên ngoài Bắc xa nhà ở công trường thủy điện rưng rưng. Họ bảo ông hát đi hát lại cho họ nghe. Làm sao không rưng rưng khi:
“Con biết bây giờ mẹ chờ tin con/ Năm trước con hẹn đầu xuân sẽ về” mà bây giờ vẫn còn ở nơi công trường trong rừng phương xa thế này. Họ bảo ông đừng đi hát đâu nữa, ở đây hát họ trả thù lao hàng ngày cho dù họ không đủ tiền về quê ăn tết. Nhưng đâu được, đời ông là phải đi đây đó; phiêu lãng với âm nhạc mới là mục đích chính của ông.
Nhạc theo mùa
Hát là sống, nhưng sống phải có cái bỏ bụng. Ông nói thật, rằng sẽ về hát ở Đạ Huoai khi biết mùa hái điều về. Hát ở Bảo Lộc khi biết mùa mưa trà có đọt. Hát ở Phú Sơn khi biết mùa chuối Laba già. Hát ở Di Linh khi mùa cà phê chín. Nông dân nghèo thì ông cũng nghèo theo. Nông dân rủng rẻng thì họ mới chia sẻ cho ông đôi đồng. Ở vùng Lộc Thành, huyện Bảo Lâm, Lâm Đồng, ông cứ hát ngang qua các xóm, thôn, mười nhà là hết mười bỏ tiền vào ca. Mùa sau tết là mùa cô bác hay hào phóng. Mùa nào hát mà cô bác chỉ đứng nghe, là khi ông biết xóm làng ấy mùa vụ đang thất bát, dân tình đang gặp kỳ khốn khó. Ông nhận ra chân lý, rằng người nghèo thường có năng lượng chia sẻ, mới nhìn xuống, mới thấy ông, mới hiểu được người nghèo.
Mà mùa màng với ông không chỉ ở trong thời khắc cây trái. Ông cũng cần mùa màng để có cảm xúc mà hát. Ông như một cuốn tự điển về nhạc Bolero, Rumba. Không thống kê, nhưng ông ước mình thuộc và chơi đờn vững chắc khoảng năm trăm bài hát. Gặp lúc mùa nắng, mùa thu ông hay hát những bài như Người tình và quê hương, Ngọn trúc đào, Tình lỡ, Trong tầm mắt đời, Đường xưa lối cũ. Gặp mùa mưa, ông hát Hai mùa mưa, Mưa nửa đêm, Em về kẻo mưa. Gặp mùa đông thì ca Chuyện người đan áo, Lạnh trọn đêm mưa, Cho vừa lòng em, Mùa đông của anh. Gặp mùa xuân thì ca Tôi chưa có mùa xuân, Con đường xưa em đi, Mùa xuân của mẹ, Xuân lỡ hẹn… Nhưng gặp những người đang gặp chuyện buồn thì họ nhờ ông hát những gì để họ hết buồn. Thì ông truyền cho họ “lý thuyết buồn” của mình rằng, buồn nên làm cho nó buồn hơn, và chỉ có buồn hơn mới làm con người ta hết được buồn. Thế là hát, Chuyến tàu hoàng hôn, Đời tôi cô đơn, Thói đời, Sầu lẻ bóng, Giọng ca dĩ vãng, Đôi ngã chia ly… Kiểu như:
Men nào bằng men yêu thương đây/ Con đường mình đi sao chua cay/ Nghe vàng mùa thu vang đâu đây / Em ơi em ơi thu thiết tha… Hoặc:
Yêu thương như nước trôi qua cầu/ Như đàn trỗi cung sầu…
Nhưng hành trình nổi trôi đó, ông không chỉ hát. Có khi, ông gặp những thanh niên nhờ ông truyền dạy nhạc cơ bản, bởi thôn quê không có lớp dạy nhạc. Cũng có cả nông dân, thợ cơ khí bốn năm chục tuổi bỗng muốn đệm được bài hát, nên nhờ ông chỉ. Học trò của ông vì thế đã xuất hiện dọc theo đường ca hát của ông. Ông không nhớ hết học trò của mình, nhưng chắc khi ôm đờn họ không thể không nhớ về ông thầy dạy nhạc bất đắc dĩ giang hồ của họ.
Trước đây, ông không đóng đô ở chợ Tùng Nghĩa lâu như thế này đâu. Bởi do ông không có xe máy, xe đạp thì không xuể, mà cuốc xe ôm bây giờ từ Đức Trọng đi Đinh Văn, Lâm Hà họ lấy đến tám chục ngàn thì ông chịu không nổi, qua Thạnh Mỹ thì đến một trăm hai chục ngàn. Mà tối phải quay về để dưỡng lá phổi đang là chuyện sống còn, và việc dưỡng đó phải sinh hoạt tập trung ở một địa điểm mới có thể.
Hát trường kỳ như thế, trong sương gió mãi như thế, nên có ngày ông cũng bị nghiệp đọa. Cầm ca kiểu Trương Đức Nghi, tên ông, phèo phổi nào chịu nổi, hẳn danh ca thị thành vái lạy là hiển nhiên rồi. Lao, căn bệnh kẻ thù của kẻ xướng ca đã đến. Ông vào ra khoa lao phổi thường xuyên, là khi gặp bệnh viện nào gần nhất trên hành trình đi hát dạo này. Rồi một dạo, ho đau đến lộn ruột vỡ ngực, ông “gác đờn” để tìm vào chữa trị phổi ở Bệnh viện Đồng Nai suốt tám tháng trời.
Ông cũng có quê hương, ở xã Bàu Hầm, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Bệnh lao vừa khỏi, ngồi mà nhớ cái thú ôm đờn ở chợ quá, ông nhảy Tùng Nghĩa, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng ngay. Nhảy lên, là sáng hôm sau đã thấy ngồi giữa chợ nghêu ngao, như thể sân khấu của riêng mình.
Thấy thương ông, có thợ điện tử ở Tùng Nghĩa đã độ chế tặng cho ông một cái máy tăng áp để khi hát nhẹ nhàng mà âm thanh vẫn vang, bớt áp lực lên lá phổi.
Cái thú đau thương đã vận vào đời ông. Ông tự học nhạc, đánh đờn, và tự đào luyện mình thành ca sĩ. Người ta bảo ông cũng có gia đình. Rằng, vợ con ông không cho ông hành nghề cầm ca; nhưng ông vẫn cứ đi, lang bạt thế, đã hơn hai lăm năm rồi. Hát quên luôn cái tuổi đã sáu lăm của mình. Ông nói ông mang lại niềm vui cho mọi người. Ông cũng nói trời phú cho ông khả năng cầm ca. Tôi thì nghĩ có khi ông trời bắt ông phải cầm ca.
Dù nghề hát rong trên thế giới nhiều thành phố cũng có, nhưng ở kiểu khác, còn hình ảnh của ông là sự kết tụ đặc quánh Việt, như là một thứ văn hóa đặc sắc phố thị xuyên làng quê Việt Nam.
Mấy ngày qua, tôi quay lại chợ Tùng Nghĩa; không thấy ông ngồi hát. Không gian chợ chợt buồn, thiếu đi cái gì đó đặc trưng. Tôi chạy về dãy nhà trọ nhếch nhác ông trọ. Xóm trọ bảo ông trả căn phòng đi rồi, mà đi đâu thì không ai biết. Chắc lại ở làng mạc, trang thôn, chợ quê, xó phố xa hút nào đó nữa thôi. Hình bóng người nghệ sĩ cứ cà nhắc cà nhắc, với nhạc phiêu linh trên môi tóc ấy bay lên:
“Người đi đi ngoài phố, chiều bỡ ngỡ bơ vơ/ Người đi đi ngoài phố, những bước chân lạc loài”…
(*) Những chữ in nghiêng là ca từ của các ca khúc, đi xuyên qua nhiều nhạc sĩ, tác giả.
Bút ký NGUYỄN HÀNG TÌNH