Một ngày là trăm năm

09:11, 03/11/2016

Thời gian là căn nguyên của mọi sự dịch đổi. Do đó, chiếm lĩnh thời gian hoặc ghi vệt cá nhân vào dòng dịch đổi đó cũng đều là cách thức để thoát khỏi sự níu vướng của thời gian. Đại tá, nhà thơ Lê Anh Dũng chiếm lĩnh và lưu vết thời gian theo một cách rất riêng: nhặt, gói và gửi kỷ niệm đời mình vào những trang thơ. Một ngày là trăm năm lộ sáng cái nhìn về không - thời - gian kỷ niệm.

Thời gian là căn nguyên của mọi sự dịch đổi. Do đó, chiếm lĩnh thời gian hoặc ghi vệt cá nhân vào dòng dịch đổi đó cũng đều là cách thức để thoát khỏi sự níu vướng của thời gian. Đại tá, nhà thơ Lê Anh Dũng chiếm lĩnh và lưu vết thời gian theo một cách rất riêng: nhặt, gói và gửi kỷ niệm đời mình vào những trang thơ. Một ngày là trăm năm lộ sáng cái nhìn về không - thời - gian kỷ niệm. 
 
Tất nhiên, cái không - thời - gian kia chưa hẳn đã là một ám ảnh thường trực trong thơ ông. Dẫu rằng tần số không - thời - gian ấy hiện diện ở hầu hết các bài thơ trong tập Một ngày là trăm năm. Kia ta bắt gặp không gian của Cổng trời Quản Bạ, của Một chiều Vũng Rô. Nọ ta lại gặp không gian của Pù Luông thực ảo, của Một ngày Di Linh. Thời gian trong tập thơ này cũng là một khoảng dài ngút bóng, dài suốt đời người: “Sông phù sa đời phù hoa/ Chuông chùa Vạn Hạnh la đà sắc không”.
 
Cái vô vi, tinh diệu giữa sắc và không, giữa thực và mộng không chỉ được Lê Anh Dũng thấu triệt trong những chuyến ruổi rong ngược xuôi mà đôi khi còn bừng ngộ cả trong tâm tư tự lắng nặng tính u hoài: “Đêm nay trời mưa ai ạ/ Mà ai xứ hạn bỏ cày/ Bỗng thèm nức mùi rơm rạ/ Đồng chiều mắt khói cay cay”. Tuy nhiên, chất lính trận quá tỉnh táo và rạch ròi đã không cho phép ông mộng mị ngay cả trong không gian oi nồng kỷ niệm mùi đồng đất rạ rơm như bốn câu được trích ở trên. Bởi vậy, sự sẻ chia, ru rín qua thơ với độc giả khó tính cũng theo đó mà ít nhiều bị sụt giảm. Thơ ông gần với ký sự: trải dài theo không - thời - gian và sự kiện, thiếu đọng lắng, tự ngân. 
 
Nhà thơ H.Man, Trưởng Văn phòng đại diện NXB Văn học tại Đà Nẵng - miền Trung - Tây Nguyên, cho rằng: “Cái ý thức “sự như xuân mộng liễu vô ngân” (chuyện đời ngắn ngủi như giấc mộng đêm xuân trôi qua mất mà chẳng để lại dấu vết nào - thơ Tô Đông Pha - PV) tự nhiên đã thành ám ảnh trùng trùng trong thơ Lê Anh Dũng”.
 
Đại tá, nhà thơ Lê Anh Dũng quê ở Điện Bàn, Quảng Nam. Ông nguyên là phóng viên Báo Quân đội Nhân dân và hiện nay là Trưởng đại diện NXB Quân đội Nhân dân, Phó Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Đà Nẵng, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Đà Nẵng. Trong 30 năm sáng tác, Đại tá, nhà thơ Lê Anh Dũng đã xuất bản 4 trường ca, 6 tập thơ, 1 tập ký và 1 tập văn - thơ.
Theo nhà thơ H.Man, nỗi ám ảnh về “sự như xuân mộng liễu vô ngân” ấy hiện hữu trong mỗi con người. Mà dấu vết rõ nét nhất của nó là từ những đời thơ. Thế nên, ai nói đến phôi pha mà không nghĩ đến trường tồn? Nắm níu, trân quí những kỷ niệm ta có dù chỉ một lần trong đời, một ngày trong đời để rồi hồn nhiên khẽ bảo Một ngày là trăm năm cũng là một cách thế nhìn về kiếp người và cuộc đời. Ta càng thức nhận về lẽ đời, càng thấy thân phận con người quá ư mong manh. 
 
“Thời gian trong tập thơ Một ngày là trăm năm giăng mắc, đan chiếu nhiều chiều. Trong tình yêu, ý niệm về thời gian của tác giả là sự thao thức sở đắc: “Nửa đời mình chờ nhau/ Tiền kiếp xưa ngoái lại/ Một ngày là mãi mãi/ Tình đại ngàn xưa sau” và hẳn nhiên cũng run rẩy, đủ đầy mọi sắc thái: niềm vui đan xen nỗi buồn, hạnh phúc xen lẫn đau khổ, mong đợi giăng níu giận hờn”, nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm, Chủ tịch Hội Nhà văn Đà Nẵng chia sẻ.
 
Trước thành Cửa Bắc xa xưa, nơi Tổng đốc Hoàng Diệu cùng binh lính sống chết theo thành, Lê Anh Dũng bật lên những cảm xúc và nhận định bùi ngùi về một thời đã ngút chìm trong lịch sử: “Hai viên đạn đại bác giặc Tây/ Bắn vào thành Cửa Bắc/ Bắn vào u mê, hèn yếu triều đình/ Bắn vào khiếp nhược kẻ mũ mão cân đai/ Xoáy vào lòng dân ta yêu nước thương nòi/ Xoáy vào ngực Tổng đốc Hoàng Diệu/ Dải lụa giữ thành ngời khí tiết nghĩa trung”.
 
Khi đến Vũng Rô, nơi đoàn Tàu Không số bí mật vào ra của một thời khói lửa, tác giả trải lòng trong trạng thái thanh thản tận hiểu thế nào là non nước thanh bình: “Trong bao chiều thương nhớ/ Có một chiều Vũng Rô/ Nghe mặn mòi khơi mở/ Những bóng thuyền nhấp nhô”. Từ đó, khơi mở ý thức bảo vệ, xây dựng và gìn giữ non sông Việt”.
 
TRỊNH CHU