Bóng chợ cổ sơ qua bóng rừng khộp

08:09, 21/09/2017

Tây Nguyên là vùng đất giao thương đầu tiên, lâu đời và duy nhất trên miền Thượng này ở Đông Dương. Nghĩa là khi Tây Nguyên còn là xứ của Pơtao Pui (Hỏa xá) và Pơtao Ia (Vua Thủy xá), trước khi người Pháp có mặt và đặt cơ sở hành chính - vào cuối thế kỷ XIX.

Tây Nguyên là vùng đất giao thương đầu tiên, lâu đời và duy nhất trên miền Thượng này ở Đông Dương. Nghĩa là khi Tây Nguyên còn là xứ của Pơtao Pui (Hỏa xá) và Pơtao Ia (Vua Thủy xá), trước khi người Pháp có mặt và đặt cơ sở hành chính - vào cuối thế kỷ XIX. Pơtao dù là biểu tượng của xã hội bán khai thần quyền lấy vai trò của Lửa (Pui) và Nước (Ia) làm đầu, cao thiêng nhất, nhưng tạm hiểu họ theo nghĩa thông thường mà các xã hội có nhà nước rõ ràng. Nó là nơi giao thương bởi thời đó là vùng tập trung việc giao lưu, bán buôn nông, lâm thổ sản, muối, cá, đặc biệt là voi duy nhất trên lãnh thổ, với sự tụ hội săn bắt, thuần dưỡng và cộng sinh thuận hòa của người M’Nông, Lào, Xiêm (Thái Lan ngày nay), Ê Đê, J’rai, Cambodia, Chăm… Bởi chính đây là vùng đệm xưa của các quốc gia lân cận trên bán đảo Đông Dương, dù bao trùm lên địa không gian đó vẫn là rừng núi, sông nước. 
 
*
 
Điền dã thực tế và điều nghiên tư liệu đều cho thấy, thời đó các sắc dân bộ tộc bán khai ở đây thường giao thương bằng voi và thuyền. Mà đoạn hạ lưu của con sông Sêrêpôk này là vùng sông nước rộng, thuận tiện cho đường thủy, thuyền, và hoạt động rất sôi động. Sông Sêrêpôk là con sông lớn chảy từ nóc nhà Đông Dương (Tây Nguyên), nhưng nó đổ nước ra con sông lớn hơn là Mê Kông ở phía bên kia, địa phận nước Lào - nghĩa là chảy ngược về phía Tây. 
 
Chính vì vậy mà cộng đồng ở đây hình thành nên một đặc trưng riêng, không lẫn vào đâu khác ở Đông Dương chứ đừng nói trên lãnh thổ Việt Nam (ngày nay). Đặc trưng đó thể hiện qua kiến trúc, và đọng lại ở kiến trúc, cho đến ngày nay. Thứ kiến trúc mang cái tình của sơn nguyên, thảo mộc lồng trong cái tâm hồn, văn hóa bên trong của người Lào, người M’Nông, người J’rai, người Ê Đê. Giao thoa đến mức người Ê Đê - cộng đồng bản địa đông nhất ở cao nguyên Đăk Lăk - khi đến đây không còn thấy rõ tinh thần Ê Đê của mình nữa. Nhà vẫn nhà sàn, nhà dài, nhưng chiều cao hình khối, hình thái kiến trúc, mái, cửa chính, cửa phụ, đến chiếc cầu thang lên xuống cũng khác ở các làng, bon, buôn Ê Đê, J’rai, M’nông khác. Ngay các hình tượng, hoa văn điểm xuyến trên kiến trúc cũng thể hiện riêng biệt, kết tụ hồn của cả Lào, M’Nông, Ê Đê. Điều thú vị là bản sắc này hình thành tự nhiên, qua sự chung sống, tương tác của cư dân suốt mấy trăm năm nay chứ không phải từ một chủ trương, định hướng nào cả. Nó là một thứ kiến trúc trao đổi chất, dân gian, truyền thống, mà ta có thể gọi là “Kiến trúc Bản Đôn” (nay hành chính gọi là Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk). Theo tiếng Lào, “Bản Đôn” nghĩa là Làng Cù Lao, mà như đã nói nơi đây là hạ lưu sông Sêrêpôk nên dòng sông rộng ra, chảy qua vùng rừng đa dạng sinh cảnh và đã tách thành nhiều nhánh nhỏ cùng chảy, hình thành nên nhiều cù lao nổi giữa dòng sông.
 
Voi trong rừng khộp mùa mưa
Voi trong rừng khộp mùa mưa

Đặc sắc hơn, khi vùng này chính là trung tâm săn bắt và thuần dưỡng voi rừng lớn nhất Đông Nam Á. Rừng ở vùng này là hệ rừng khộp trên đất cát pha - không gian sinh tồn thích hợp nhất của loài voi. Và kiểu rừng này rất mênh mông, trải dài từ đây qua Strung Sreng hoang vu của Lào lẫn khu vực tây bắc Cambodia. Đến mức không chỉ kiến trúc, mà cuộc sống ở đây mọi thứ đều có hơi thở của voi, bóng dáng của voi. Voi thành biểu tượng, vật thiêng của vùng Bản Đôn. Cư dân bản địa coi voi như bạn, thành viên của gia đình, và là một thứ tài sản. Gia đình nào cũng có người biết săn voi, và cả xứ sở là một trung tâm săn bắt, thuần dưỡng voi. Và cái “chợ” Vvoi lớn nhất Đông Dương từng hình thành ở đây. Cũng trong quá khứ, vua quan các nước lân cận còn qua tận đây mua voi. Chính voi đã là “sứ giả”, cầu nối cho các mối bang giao giữa các xứ rừng núi trải dài từ trung lưu sông Sêrepôk đến Thái Lan, Miến Điện (Myanmar ngày nay). Và người săn voi giỏi như huyền thoại, lừng danh xứ sở là Y Thu Knul từng tặng cho Vua Xiêm một con voi trắng - voi trắng là quí hiếm nhất. Hào danh “Khunjunốp” (tiếng Thái là “Voi săn Voi”) của Y Thu Knul vẫn sừng sững cho đến giờ là do Vua Xiêm phong tặng trong quá khứ mù xa đó. Còn Lào trở thành xứ “Vạn tượng” (Ngàn voi) cũng có sự tiếp sức quan trọng từ vùng săn voi này, nơi cung cấp nguồn voi đáng kể. 
 
Bây giờ, hoạt động săn bắt voi không thể còn được phép, nhưng Buôn Đôn vẫn cứ là nơi còn nhiều voi rừng và voi nhà nhất, dù không dày đặc và sục sôi như xưa.
 
*
 
Trên cao nguyên Đăk Lăk, nơi đặt trung tâm hành chính đầu tiên không phải tại Buôn Ma Thuột mà là Bản Đôn (năm 1899). Dĩ nhiên quyết định của Paul Doumer - Toàn quyền Đông Dương - rất hợp lý ở thời điểm đó, bởi chẳng đâu khác Bản Đôn có sự tụ hội con người sẵn và sôi động như thế giữa một thế giới rừng núi nhiệt đới. Vì tính đậm đặc và nội lực hẳn rất thâm hậu của các bon (làng), bản, buôn, plei… ở quanh các cánh rừng, ven con sông Sêrêpôk mà hiện nó vẫn còn đậm hình ảnh xưa, thứ không gian sống của người sơn cước miền rừng khộp nhiệt đới và sông suối ban sơ. Bản, buôn, bon, plei trật tự theo các con đường làng; nhà cửa chan hòa dưới bóng cây dầu, me, cà chít, căm xe thuộc hệ rừng khộp, và dưới cái nóng chói chang tàn khốc của thời tiết “miền hạ Lào”. Nhà với nhà cách lưa thưa, để kiến trúc được thở, các “tổ người” được độc lập, được thở, nhưng không ngăn cách, vì hiếm thấy bóng hàng rào. Khoảng cách giữa mặt đất và sàn nhà cũng khá rộng cho thoáng mát, và công năng của nó có thể để máy cày, xe công nông, mở quán cà phê, và… treo võng ngủ. Với cư dân tâm trí còn hướng về thiên nhiên để sống, thì từ lời ăn tiếng nói, sinh hoạt, lề lối, ứng xử của họ bao giờ chả bám vào thảo mộc, “tính rừng”, sự đơn giản, an lành và êm ái chứ. Bản sắc đặc quánh “Bản Đôn” đó còn hiển hiện không chỉ qua kiến trúc, mà ngay lề thói, phong tục, văn hóa gốc của sắc tộc M’Nông, Lào, Ê Đê, J’rai của ngày xa xưa kia vẫn cơ bản còn “sống”. Ngay người Lào, khi nhập cư vào đây đã đặt tên, mang họ theo kiểu người Ê Đê, M’Nông hết. Và cấu trúc xã hội cũng nghiêng về phía mẫu hệ, các lễ hội dân gian xưa, việc sử dụng cồng chiêng làm nhạc cụ chính cho đời sống sinh hoạt, và kể cả cái chết - vẫn làm nhà mồ và điêu khắc tượng gỗ tặng người chết để người chết an vui ở cõi khác. Họ hấp thụ qua lại văn hóa của nhau. Và thú vị hơn, kiểu kiến trúc xứ voi Bản Đôn còn ảnh hưởng đến các làng, bon, buôn, plei ở xa, với nhiều làng cố làm nhà ở cho giống người ở Bản Đôn.
 
Sự nguyên vẹn còn tương đối của nó cho ta sự ý vị, về một kiểu không gian sống mà chúng ta đã từng trải qua (và sau đó miệt mài trong xã hội đô thị, với phân lô, cao tầng, bê tông, tường rào, và chợ búa đồng bằng - không thuộc rừng), hoặc không thể có được.
 
NGUYỄN HÀNG TÌNH