"Muốn tìm hiểu nhiều về văn hóa của người Cil ở Đưng K'Nớ, hãy ghé tìm ông Bon Niêng Ha Sào" - Phó Bí thư Đảng ủy xã Đưng K'Nớ - Phi Srỗn Ha Nràng đã quả quyết.
“Muốn tìm hiểu nhiều về văn hóa của người Cil ở Đưng K’Nớ, hãy ghé tìm ông Bon Niêng Ha Sào” - Phó Bí thư Đảng ủy xã Đưng K’Nớ - Phi Srỗn Ha Nràng đã quả quyết.
|
Ngoài cây nêu, ông Ha Sào còn khắc các họa tiết truyền thống của người Cil trên nhiều vật dụng khác như sáo, tẩu thuốc, cần rượu... Ảnh: N.N |
Cha vợ truyền nghề
Ở Đưng K’Nớ, huyện Lạc Dương còn có mỗi Bon Niêng Ha Sào ngoài 70 tuổi là người duy nhất lưu giữ gần như đầy đủ những họa tiết truyền thống của người Cil thường được trang trí nhiều trên cây nêu. Đối với người dân nơi đây, cây nêu có vị trí vô cùng quan trọng trong các lễ hội lớn. Bởi cây nêu không chỉ là biểu tượng của sự sống, kết nối giữa trời đất, con người với các vị thần linh (Yàng) mà họ còn muốn gửi gắm ở đó những ước mơ, khát vọng chinh phục thiên nhiên nhằm hướng tới một cuộc sống tốt đẹp và bình yên. Mỗi khi tổ chức các lễ hội, bà con thường dựng cây nêu để mời gọi Yàng về dự, chứng kiến và cùng chung vui với buôn làng. Bởi ý nghĩa đó nên người ta rất chăm chút cây nêu, xem như một tác phẩm nghệ thuật đậm chất dân tộc mình. Mỗi khi bà con muốn khắc các họa tiết truyền thống lên xà nhà, hay đơn vị nào đó ở tận Đa Nhim muốn có cây nêu trưng bày... người ta đều tìm đến gõ cửa nhà Ha Sào cậy nhờ. Hỏi chuyện về ông Ha Sào, nhiều bà con ở đây đã buột miệng rằng “mai này khi Ha Sào chết đi ai sẽ là người khắc hoa văn cho người Cil”.
Nhiều năm về trước khi về sống ở nhà vợ, chính bố vợ đã truyền những câu chuyện trong mỗi họa tiết văn hóa của người Cil cho con rể Ha Sào trong những lần hai cha con cùng làm việc. Thời gian trôi đi, bố vợ Ha Sào ngày một già, mắt kém, tay run nên bà con ai đến nhờ chạm khắc đều do Ha Sào đảm nhận. Càng làm trình độ càng lão luyện, Ha Sào không chỉ chạm khắc được lên cây nêu mà còn khắc được cả lên tẩu thuốc, lên cần rượu... “Công việc chạm khắc rất tỉ mỉ và mất nhiều thời gian nên đòi hỏi người làm phải thật kiên nhẫn. Ngày đó, mỗi lần mình ngồi dưới bóng cây trước nhà để khắc, ông già vợ mình vẫn ra ngồi chung, mình khắc họa tiết nào ông kể chuyện về họa tiết đó thế mình mới hiểu. Cái gì cũng vậy, phải hiểu rõ mới làm được chứ” - ông Ha Sào nhớ lại.
Khi bỏ cây xà gạc, cây cuốc, cầm con dao nhỏ nhất trong những loại dao mà bà con vẫn thường sử dụng gọi là pis để khắc lên thân cây lồ ô thì Ha Sào không khác người nghệ sỹ nào cả. Qua cặp kính lão, con dao nhỏ uốn lượn trong tay ông khắc từng nét một lên cây, các họa tiết hiện ra ông dùng lá cây rừng mà người ta vẫn dùng để nhuộm thổ cẩm để làm màu cho các họa tiết vừa được chạm khắc. “Không đơn thuần đó là nét vẽ trang trí mà đó là tất cả những gì diễn ra trong cuộc sống của người Cil từ thời ông bà đến tận bây giờ” - ông Ha Sào nói với chúng tôi.
Mỗi họa tiết là một câu chuyện
Ông Ha Sào vừa hoàn thành cây nêu cho một gia đình ở Đầm Ròn nhờ làm để dựng trong nhà mới. Trên cây nêu ấy có 10 họa tiết được nối liền nhau từ trên xuống dưới. Cầm cây nêu trong tay, ông nói với chúng tôi: “Mỗi hoa văn đều mang một ý nghĩa khác nhau, wièh (xà gạc), vật dụng không thể thiếu của người Cil, lúc nào ai lên rẫy, lên rừng trong tay đều có xà gạc dùng để phát nương làm rẫy có cái ăn hàng ngày; sơnual (lưới bắt cá) là dụng cụ bà con mình bắt cá ở suối; măt tơngê (mặt trời), không có mặt trời là không có sự sống, có ánh sáng con người mới sống được trên trái đất này; kòn pì (con chồn) nó khôn lắm, bà con mình trỉa hạt chỗ nào nó tới chỗ đó bới lên ăn; matsem (mắt chim), chim bay trên cao nên thấy hết cả núi rừng. Hay như sề rơnđòt (răng cưa) ngày xưa ông bà mình có tục cưa răng, đàn ông cưa hết răng cửa ở trên, đàn bà cưa nhọn hàm răng dưới. Răng cưa xong được nhuộm đen bằng lá rừng. Con trai, con gái mà chưa cưa răng, nhuộm răng sẽ không được lấy vợ, lấy chồng, hoặc nha guôl (lá đùng đình) để che nắng che mưa...
Những lời lý giải chân chất của người đàn ông ấy như vẽ ra trước mắt chúng tôi cả bảo tàng triết lý sống của một dân tộc, cách người Cil xưa sống và hòa hợp với thiên nhiên cây cỏ. Trong căn nhà nhỏ nhìn ra 4 bề là núi đồi trùng điệp của ông Ha Sào có đủ một bộ chiêng, cây nêu trong nhà, tẩu thuốc, cần rượu có chạm khắc những hoa văn truyền thống của người Cil. Vít cần rượu bằng mây trong tay để mời khách phương xa ghé thăm nhà rượu cần do cô con gái ủ, ông Ha Sào nói rằng: Ông bà mình ngày xưa, làm gì cũng có lý do hết. Họa tiết khắc trên cây nêu để gửi tới thần linh phù hộ cho cuộc sống tốt đẹp. Khắc trên tẩu thuốc của người già để nhắc nhớ dạy cháu con, khắc trên cần rượu để dù buồn hay vui cũng không được quên những giá trị cốt lõi. “Không được dùng cần rượu có gắn vòi nhựa đâu nhé, người Cil mình xưa dùng cần rượu làm bằng thân cây mây. Mây mang về được cạo sạch vỏ, đem phơi khô, lấy thanh thép nhỏ nung đỏ xâu qua. Đến cuối cùng của cần rượu được đóng chặt và đục hai lỗ nhỏ hai bên tránh vỏ trấu chui vào cần. Bên ngoài cần rượu được gắn một khúc đuôi nhím (grung soma), để đến khi uống hết lượt của mình, người uống sẽ rung cần kêu lách cách, người bên cạnh hiểu ý mà thêm nước vào. “Người Cil mình uống rượu không tự rót đâu, phải để bạn rót. Tự rót là bị phạt đấy” - Ha Sào say sưa kể.
Ông yêu, trân trọng và giữ gìn văn hóa nhiều đến mức một công ty du lịch ở Sài Gòn mang tên Trekker café đã hợp tác với ông để phát triển du lịch khám phá văn hóa bản địa ngay tại Đưng K’Nớ. Nhiều du khách người nước ngoài theo tour của Trekker cafe tới với ông Ha Sào để sống trong văn hóa. Điều họ mang về là những câu chuyện và mua về những cần rượu, tẩu thuốc có hoa văn của người Cil. Ngoài những vật dụng với đầy đủ họa tiết của người Cil, ông Ha Sào còn phối hợp với công ty này để sưu tầm lại bộ chiêng đúng chuẩn một bộ đồng la hoàn chỉnh của người Cil xưa. Tiếng chiêng vang lên cùng những câu chuyện văn hóa trong ngôi nhà nhỏ trên đồi ấy còn đưa chúng tôi đến với những câu chuyện khác nơi “vùng đất bằng huyền thoại”.
NGỌC NGÀ