Gặp "Người yêu nước mình" ở Huế

09:09, 06/09/2018

Một buổi sáng mùa hè tôi cùng nhà thơ Mai Văn Hoan đến thăm Trần Vàng Sao. Nhà ông là một ngôi nhà cổ ở phường Vỹ Dạ (thành phố Huế). Điều ấn tượng đầu tiên với tôi là ông có một thú vui treo rất nhiều lồng chim cu gáy ngoài hiên và trong nhà có rất nhiều tranh Bồ Đề Đạt Ma do ông vẽ.

Một buổi sáng mùa hè tôi cùng nhà thơ Mai Văn Hoan đến thăm Trần Vàng Sao. Nhà ông là một ngôi nhà cổ ở phường Vỹ Dạ (thành phố Huế). Điều ấn tượng đầu tiên với tôi là ông có một thú vui treo rất nhiều lồng chim cu gáy ngoài hiên và trong nhà có rất nhiều tranh Bồ Đề Đạt Ma do ông vẽ. Lúc chúng tôi đến, Trần Vàng Sao đang vẽ. Ông vẽ dưới nền nhà, ngồi xổm vẽ, vẽ sau các tờ lịch cũ bằng bút chì, mực nho và các bột màu rẻ tiền. Điều lạ là so với các tranh về Bồ Đề Đạt Ma thì tranh vẽ của ông thể hiện Sư Tổ Đạt Ma có vẻ phong trần hơn, ánh mắt sắc tướng hơn, không đạo mạo như trong sách Phật. Có một điều lạ là dưới các bài thơ của mình ông ký Trần Vàng Sao khá bay bổng, thanh thoát; còn dưới tranh vẽ thì ông ký hai chữ Nguyễn Đính (tên thật) rất khiêm nhường, ngay ngắn. Ông vẽ chính là rèn đúc cái tâm, không một chút xao động trước lời mời hứa hẹn công danh tên tuổi, tiền bạc. Ví như biết ông là tác giả “Bài thơ của một người yêu nước mình” nổi tiếng, nhà thơ Nguyễn Hoa lúc ấy là Trưởng Ban Tổ chức hội viên Hội Nhà văn Việt Nam đã không dưới hai lần mời ông viết đơn gia nhập Hội, thế nhưng ông từ chối. Khi chúng tôi vào nhà câu đầu tiên ông chỉ tôi và hỏi: Chú này là ai? Nghe Mai Văn Hoan giới thiệu tôi, ông mới vui vẻ mời vào và lấy ra cuốn sổ tay vở học trò có những dòng kẻ ngang ghi nắn nót: Ngày... tháng... năm... có... đến chơi rất cẩn thận. Nhà thơ Mai Văn Hoan hỏi: Dạo ni ông có hay sang ông Điềm chơi không? Trần Vàng Sao có vẻ hể hả: Thỉnh thoảng có khách văn đến chơi, ông Điềm gọi tôi sang thỉnh thoảng ông ấy lại cho tiền. Có một nét riêng biệt là Trần Vàng Sao thật hồn nhiên khi đọc những câu thơ vui “hơi sái”. Vừa đọc vừa cười cười như phiêu sang một cõi khác thì bỗng giật mình lẩm bẩm: Ua chầu chầu... nhìn trước nhìn sau như sợ có ai nghe thấy. Thường, thơ ông buông xuống bản thảo những câu gấp gáp nặng trĩu như những tiếng thở dài cho mình và cho người, ít khi chú trọng niêm luật và nhạc tính. Hình như tứ thơ được đẩy ra thoát lộ gấp gáp bút mực riết róng mới kịp ghi lại được. Còn thơ đọc cho bạn bè thì lại là những dòng lục bát tưng tửng kiểu như: “Không nhớ tháng, không nhớ ngày/ Nửa đêm thức dậy chống tay ngó trời/ Bây giờ cho tới cuối đời/ Thì tôi cũng cứ như tôi thế này”. Ngó qua Trần Vàng Sao tướng mạo hơi khác người nhưng thật ra thì ông hiền khô, quanh năm quần áo nâu như một lão nông thứ thiệt. Tôi rất thích kiểu “nói thơ” của ông nói với bao chiêm nghiệm. Thấy một điều lạ là ông không đọc những bài thơ nổi tiếng của mình chỉ ứng khẩu rất tài tình những câu thơ vui. Cứ tưởng ông nói năng huyên thuyên nhưng ẩn sâu bên trong là sự tự tại của một vị thiền sư. Khi nghe tôi gắng hỏi về sự ra đời của “Bài thơ của một người yêu nước mình” - đứa con tinh thần đã làm nên một thương hiệu, chính hiệu Trần Vàng Sao. Ông kể: Cuối năm 1967, ông bị sốt rét nặng phải vô trạm xá chiến khu đóng tên A Lưới. Lúc ấy, Ban Tuyên huấn Thành ủy đang làm tập văn thơ “Nổi lửa” chuẩn bị tuyên truyền cho Cuộc tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân. Anh em vào viện hỏi ông: Có bài gì không để in. Ông viết ngay một mạch được bài thơ 120 câu toàn chuyện của đời mình. Họ in ở chiến khu sau đó đưa về Huế hàng ngàn bản cho lực lượng hoạt động nội đô phát hành vào tháng 12/1967. Lúc đầu, ông ký là Trần Sao, nhưng sau đó sửa lại là Trần Vàng Sao, vì lúc nghe tổng tiến công thì sướng quá cứ ngỡ thắng lợi đến rồi. Trưa đó, chúng tôi có nhã ý mời ông ra bờ sông Hương ở quán bia Khách sạn Hương Giang cũng ở phường Vỹ Dạ nhưng ông nhã nhặn từ chối, bảo rượu say rồi mà mồi thì có dùng được chi nữa vì răng hết rồi còn lợi thôi. Tiễn chúng tôi ra cổng, khi đứng giữa sân biết khách ngỏ ý chụp ảnh lưu niệm, ông vui vẻ khoác vai tôi như hai người bạn đồng niên tri kỷ thật thoải mái và chân tình. Khi nhìn thấy bà Hay - vợ ông đi qua, tôi ngỏ ý muốn chụp bức ảnh với hai ông bà nhưng ông gạt đi không biết lý do gì. Bà Hay có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, cả một đời quên mình nuôi ông và các con ông trưởng thành. Có một điều trùng hợp ngẫu nhiên và cảm động là nhà thơ Trần Vàng Sao mất ngày 9/5/2018 vì bệnh gan (thọ 77 tuổi) thì chưa đến ngày thất tuần, bất ngờ ngày 30/5/2018 chị Võ Thị Hay (vợ ông sinh 1951) cũng qua đời vì nhiễm trùng máu. Thế là vợ chồng “Người yêu nước mình” cùng dắt tay nhau vào cõi tạm...
 
Nhà thơ Trần Vàng Sao đang đọc thơ chép trong sổ tay
Nhà thơ Trần Vàng Sao đang đọc thơ chép trong sổ tay

Tôi và nhà thơ Mai Văn Hoan ngồi với nhau bên cốc bia Huế mà tâm trí cứ hướng về hình ảnh thi sĩ Trần Vàng Sao. Chợt tôi nảy ra ý định đi thăm nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng là một người “yêu nước mình” nổi tiếng với chương “Đất nước” trong trường ca “Mặt đường khát vọng”. Tôi nhìn đồng hồ lúc đó mới 1 giờ chiều nhưng Mai Văn Hoan sốt sắng rút điện thoại gọi cho ông. Tôi ngăn lại: Giờ này nhà thơ đang nghỉ trưa, ta có làm phiền không? Mai Văn Hoan vui vẻ: Không việc chi đâu, ông Điềm từ ngày về đây với chúng tôi như bạn bè mà có ta đến chơi chắc ông vui lắm...
 
 Khi chúng tôi đến do báo trước nên cánh cửa nhà ông mở rộng, xe máy Mai Văn Hoan cứ thế chở tôi vào tận sân. Tôi chú ý vườn ông trồng rất nhiều chuối, loại chuối ngự, chuối ngày xưa tiến vua. Và đặc biệt trước nhà ông có hai cây Sa La cao vút, loài cây này tôi đã từng gặp ở vườn thượng uyển trong chuyến đi Ấn Độ. Trong kinh Phật có hai loại cây được xem là linh thiêng và thường nhắc đến là cây Bồ Đề và cây Sa La. Dưới tán cây Sa La ở vườn Lâm Ti Ni (Lum bi ni) Đức Phật được sinh ra và Ngài cũng nhập định dưới cây Sa La tại Câu Thi La (Kusinara). Cây này còn được gọi là cây Vô Ưu là cây thiêng hoa nở rất đẹp. Thấy tôi chăm chú nhìn hai cây Sa La nhà thơ cho biết: Đó là hai cây bộ đội tình nguyện Việt Nam mang từ Campuchia về tặng ông với ý nghĩa, cây Sa La là nơi Phật sinh ra cho ta nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn, nhớ để bảo vệ từng tấc đất Tổ quốc mình. Nhà ông là một ngôi nhà cổ được cải tạo lại mái ngói thẫm màu. Giữa nhà là bàn thờ tự với đầy đủ đồ tế tự của một ngôi nhà rường truyền thống xứ Huế. Trên bàn thờ có mấy hàng bài vị với những ảnh thờ phóng to xếp theo thứ bậc. Quả là liệt tổ, liệt tông, một dòng họ nhiều đời từ triều đại phong kiến đến giờ, đều giữ những cương vị đáng nể. Tôi chú ý một bức ảnh người phụ nữ khuê các đó chính là nữ sỹ Đạm Phương, bà nội nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ông Điềm chỉ vào bức ảnh mà tôi thấy quen quen: Ba mình đó! Vâng đó là cụ Hải Triều Nguyễn Khoa Văn - nhà báo - nhà lý luận Mác xít hàng đầu Việt Nam từng gây cuộc tranh luận nổi tiếng “Nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh” với Hoài Thanh, Thiếu Sơn, Lưu Trọng Lư những năm 1935-1939...
 
 Khi thấy tôi hỏi: Trường ca “Mặt đường khát vọng” trong đó có chương “Đất nước” nhà thơ viết hồi nào. Ông nói: Hồi ấy tuyên huấn quân khu ủy Trị Thiên triệu tập anh em chúng tôi lên rừng ở một trại sáng tác có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Vàng Sao... tôi viết trường ca xong đọc cho anh em nghe. Anh Trần Hoàn phụ trách trại rất ưng ý, nhất là chương “Đất nước”. Nhạc sỹ Trần Hoàn cũng là người phổ nhạc bài hát lời thơ của tôi: “Lời ru trên nương”. Hồi đó gian khổ mà vui, trong lòng mình luôn hừng hực khí thế xuống đường hòa nhịp với dòng chảy cuộc sống đô thị Huế. Từ ngày nghỉ hưu về Huế, ngoài chuyện làm thơ đọc sách, mối quan tâm lớn nhất của ông là các vấn đề văn hóa. Ông cười thoải mái: Bây giờ thì tôi còn “chường” cái mặt tôi trong thơ. Thơ thì phải nói thật lòng mình, không thể giấu mình, không thể nói dối. Khi biết chúng tôi sáng nay vừa đến thăm nhà thơ Trần Vàng Sao ông vui lắm: Đôi khi có rượu ngon, có khách mình thường cho người sang mời anh Đính. Anh đạp xe đến liền. Thấy khách văn nghệ vui vui thì anh nhập cuộc vui vẻ. Nhưng thấy khách lạ là anh Đính bước ngay xuống nhà bếp ngồi chơi với người nhà của tôi. Mỗi khi được uống rượu tây, anh Đính cứ nâng lên đặt xuống nhìn cái nước rượu màu hổ phách thơm lừng với cái nút gỗ sồi quý tộc. Anh cứ hít hà: Ui chầu chầu ngon quá đã quá he... Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cao hứng đọc cho chúng tôi nghe một bài thơ viết cho Trần Vàng Sao: “Bạn cũ đến chơi/ Chép miệng sống cũng tạm được/ Phải cái hơi móm/ Cười trống trơ như Đỗ Phủ/ Nhìn nhau thương con mắt/ Còn lung lay ngọn lửa rừng/ Thời bom đạn…”.
 
Gần đây, tôi có dịp trở lại Huế lại cùng nhà thơ Mai Văn Hoan đến thắp hương cho thi sĩ Trần Vàng Sao. Cánh cổng cũ đã được xây lại thành cổng mới, tường mới. Nhưng vẫn còn đó con số 38 nổi cộm hằn lên cổng ngõ. Tôi lặng lẽ đến bên bàn thờ hai vợ chồng ông. Trong hương khói trầm thơm, nhà thơ nhìn tôi vẫn đôi mắt tinh anh, hấp háy cười thật sinh động. Lung linh nến, lung linh sinh khí tỏa ra từ căn nhà nhỏ ấm cúng này. Vâng, ông vẫn nhìn thấu đời khi mà: “Tôi yêu đất nước này lầm than/ mẹ đốn củi trên rừng cha làm cá ngoài biển/ Ăn rau rìu, rau có, rau trai/ Nuôi con người từ khi mở đất/ Bốn nghìn năm nằm gai nếm mật/ Một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ/ Một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng…” (Bài thơ của một người yêu nước mình - Trần Vàng Sao).
 
Ghi chép: NGUYỄN NGỌC PHÚ