C25 An ninh Khu 6, thời lửa và hoa

TRẦN ĐẠI 06:41, 30/11/2023

Đại đội 25 An ninh vũ trang Khu 6 được thành lập năm 1973 do ông Hai Lê - Bí thư Khu ủy và ông Chín Cán - Trưởng Ban An ninh Khu 6 cũ công bố quyết định với mục đích bảo vệ an toàn các vị lãnh đạo và khu ủy thời chiến. C25 là cán bộ, chiến sĩ công an từ 8 tỉnh phía Bắc chi viện. Sau 1975, số lớn các anh, các chú xin trở về quê, chỉ còn trên 10 người ở lại. Hàng năm, vào ngày 5/11, 10 anh em tổ chức gặp nhau, ôn lại một thời lửa và hoa để làm gương cho con cháu nhớ ơn những người cầm súng bảo vệ Khu 6 yên bình. 

Anh em C25 cũ và vợ con trong ngày gặp mặt tại Bảo Lộc
Anh em C25 cũ và vợ con trong ngày gặp mặt tại Bảo Lộc

Vào đầu tháng 11 năm nay, anh Vi Xuân Liệu - cựu Đại úy công an Lâm Đồng, nguyên Chủ tịch UBND phường Lộc Tiến TP Bảo Lộc đến nhà tôi uống với nhau ly trà sáng trong sương mù. Trước khi chia tay, anh ôm tôi rồi vỗ vai nhỏ nhẹ: “Chú mầy là lính C25 cũ, vài ngày nữa, anh em từ Phan Thiết và Tánh Linh lên Bảo Lộc gặp nhau. Là người lính, cũng là dân cầm viết, chú mày cố viết một bài đăng báo để anh em đỡ tủi thân. 48 năm sau ngày hòa bình, chưa có 1 bài báo nào viết về đại đội mình. Nhiều lúc nhìn anh em C25 còn sống quây quần bên nhau trong lặng lẽ, anh cảm thấy buồn buồn, nước mắt chảy ra”. Lúc ấy, không ai bảo ai nhưng cả hai người lính cũ ôm nhau ầng ậng nước mắt. Tiễn anh về, nhìn theo bước chân xiêu vẹo của người lính già, trong tâm thức tôi hiện lên những gương mặt hốc hác của các anh em một thời chiến tranh gian khổ, rồi sau hòa bình sống trong bao cấp khó khăn cứ hiện về mồn một… 

Cũng sáng hôm ấy, tôi điện thoại cho anh Hoàng, bạn đàn anh thân thiết của tôi cũng là người có nhiều kỷ niệm về Đại đội 25. Anh Hoàng - nguyên Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Lâm Đồng, bên đầu dây chia sẻ với âm sắc buồn buồn: “C25 bảo vệ Khu 6 cũ đa số là bà con dân tộc ít người ở phía Bắc. Sau ngày hòa bình, một số anh em xin về quê, cho đến năm 1978-1980 anh em trở vô Đà Lạt xin giấy xác nhận để được nhận tiền trợ cấp xuất ngũ, mất sức, bệnh binh nhưng khổ nỗi không có giấy tờ gì. Tuy nhiên, Sở cũng cố gắng tìm mọi cách giúp anh em, bây giờ ổn rồi". 

***

Hai hôm sau, anh Liệu đến nhà tôi, mặc bộ cảnh phục công an tươm tất đã qua nhiều năm gió bụi. Anh kéo từ túi áo ra một tờ giấy kẽ ngang chi chít chữ, những dòng chữ của người già ngã tới ngã lui trông rất tội nghiệp. Anh bảo tôi rót thêm 3 ly trà, kê thêm 3 cái ghế để trống, rồi đốt 3 cây nhang. Dưới làn khói nhang chập chờn, anh đứng lên thì thầm mời các anh em C25 đã về với đất đến xứ B’Lao uống ly trà nóng với anh em. Sau phần nghi thức, anh ngồi xuống cạnh tôi nhỏ nhẹ: “Sáng nay, anh mang theo tài liệu về đơn vị mình đọc cho chú mầy nghe để biết thêm tư liệu, anh đã cặm cụi viết 2 ngày đó chú”. Anh Liệu vuốt thẳng tờ giấy rồi đọc chậm rãi, có lúc dừng lại giải thích cho tôi nghe một cách từ tốn rồi cất giọng: Mùa thu năm 1972, Bộ Công an điều động 52 anh em công an trong 8 tỉnh khác nhau về Chương Mỹ, Hà Tây huấn luyện. Sau khi kết thúc khóa, lãnh đạo Bộ công bố Quyết định QL276 - tên của đoàn vào chiến trường Bác Kế (mật danh Khu 6 cũ). Ngày ấy, đoàn 276 đa số là anh em dân tộc Tày, Nùng, Mường, Thái... và một số ít là người Kinh. Ban lãnh đạo đoàn gồm 3 người, đồng chí Vũ Lệnh Sinh làm trưởng đoàn, đồng chí Đinh Minh Cầm và đồng chí Đinh Hùng Dụng làm phó đoàn. Tuy nhiên, để quản lý cụ thể, đoàn chia làm 3 phân đội, mỗi phân đội có 3 tiểu đội, từ trung tâm huấn luyện Chương Mỹ, đoàn được xe chở đi đến sông Cửa Nậm, huyện Bố Trạch, Quảng Bình. Thời ấy dọc theo sông Cửa Nậm, địch thả pháo sáng suốt đêm ngăn chặn lính miền Bắc vượt sông chi viện cho chiến trường miền Nam, nên người lái sà lan cho chạy dọc theo bờ sông, canh khoảng khắc tối trời, người điều khiển sà lan bẻ lái đột ngột vượt sông an toàn. Qua được sông, đoàn bắt đầu hành quân bộ vượt đèo lội suối qua các dốc Ba Thang, Cổng Trời rồi qua đường biên giới của nước bạn Lào, Campuchia. Tại biên giới Lào - Việt, đoàn đi qua các tỉnh Khăm-muộn, Xa-pha-na-khẹt…, sau đó qua các tỉnh vùng biên của Campuchia. Đến trạm dừng chân của đường dây 559, đoàn còn 3 đồng chí, vì đa số bị sốt rét nên nằm lại các trạm giao liên. Do quân số quá ít nên trưởng trạm đường dây bắt đoàn dừng lại 15 ngày chờ đợi, sau đó được 22 đồng chí tiếp tục cuộc hành quân đến Lộc Ninh, Bình Phước chờ đợi giao liên dẫn về chiến khu Bác Kế. Đoàn về đến Suối Chao, xã Lộc Bắc, thuộc huyện Bảo Lâm bây giờ, chờ đợi rồi mất liên lạc, không còn tiếp tế gạo muối nữa. Các anh em quần áo rách nát, trống trước hở sau, tự đào củ chụp, củ nần và lá rừng sống qua ngày. Lúc ấy, đoàn bị địch bao vây tứ phía, cắt mọi tuyến đường, không cho dân tiếp tế cho cách mạng. Những lúc đói khát cận kề được bà con dân tộc ở Lộc Bắc cho củ mì sinh sống tạm thời. Vài tuần sau, đoàn đến xã Huy Khiêm, thuộc huyện Tánh Linh, Bình Tuy cũ tập kết an dưỡng 1 tháng để chuẩn bị về Ban An ninh Khu 6 ở căn cứ tỉnh Bình Thuận.

Sau năm 1973, khu ủy đã dời về khu vực Đèo Sông, nay thuộc xã Mỹ Thạnh, huyện Hàm Thuận Nam, Bình Thuận, còn Ban An ninh đóng tại khu vực Núi Nõm, nay thuộc địa phận xã Hàm Cần, giáp ranh xã Mương Mán, Hàm Thuận Nam do đồng chí Phạm Thuần - tức ông Chín Cán làm Trưởng Ban An ninh khu. Tại đây, khu ủy ra quyết định thành lập đại đội 25 từ đoàn QL276 với nhiệm vụ bảo vệ an ninh và các đồng chí lãnh đạo khu ủy Khu 6. Theo quyết định trên, đồng chí Vũ Lệnh Sinh là đại đội trưởng; trợ lý quân sự là đồng chí Nguyễn Văn Tào; 3 đại đội phó là các đồng chí Đinh Minh Cầm (chính trị viên), Trần Minh Hạnh (phụ trách tổ chức) và Đinh Hùng Dụng (phụ trách hậu cần). Thời gian khu ủy dời về Bình Thuận, do thông tin bị rò rỉ nên tháng 10/1973 bị sư đoàn 23 của địch bao vây càn quét, nhưng sự quyết tâm và khôn khéo của đại đội đã bảo vệ khu ủy và sơ tán các đồng chí lãnh đạo an toàn. Cũng xin nói thêm, để phá được thế trận bao vây là công lớn của đồng chí Đinh Hùng Dụng, do thường xuyên đi săn thú để cung cấp thêm cho bữa ăn đơn vị, anh Dụng phát hiện có 1 đường hẻm dưới chân núi nên tổ chức cả khu ủy rút khỏi hậu cứ một cách an toàn. Tuy nhiên, đại đội có 2 đồng chí là Hoàng Minh Trâm, Hoàng Minh Thông hy sinh. Lúc chôn cất đồng đội, do đối phó với địch nên anh em chỉ đào hố cạn rồi lấp đất vội vàng, mấy ngày sau quay lại đã thấy 1 mộ bị đào bới. Ngay ngày hôm sau, ông Trần Đức Hoài, tức ông Ba Mỹ - Phó Ban An ninh ra lệnh canh giữ xem ai đào mộ thì phát hiện có hai con kỳ đà lớn đào bới. Sau năm 1975, hài cốt của 2 đồng chí được mang về nghĩa trang. Tháng 10/1974, để chuẩn bị cho chiến dịch, đại đội tăng cường cho các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận, Bình Tuy, Tuyên Đức, Lâm Đồng. Đến ngày 30/5/1975, toàn đại đội mới tập trung về Đà Lạt. Đó lần cuối cùng anh em gặp nhau trước khi phân bố về các tỉnh, cũng thời gian này, có 2 đồng chí chuyển sang chiến trường K là Nguyễn Văn Mai, Đinh Công Lệnh, sau đó một số anh em xin về Bắc. Hiện tại, C25 còn 10 đồng chí đã về hưu, sinh sống ở 3 tỉnh là Lâm Đồng, Bình Thuận và Ninh Thuận.

***

Ngày 5/11 năm nay, anh em C25 còn ở lại 3 tỉnh nói trên tập trung về Bảo Lộc, Lâm Đồng. Sau khi tàn tiệc, anh Hoàng Khai - nguyên Thượng tá, Phó Trưởng Công an TP Phan Thiết - người chiến sĩ C25 năm xưa trải lòng: “Trong suốt thời gian hành quân từ Bắc vào Nam, đoàn 276 - sau này là C25, do anh em bệnh tật nên tách nhập, chờ đợi, phải đi bộ 6 tháng 21 ngày. Một số anh em chuyển sang làm cần vụ cho ông Hai Lê (Trần Lê), Bí thư Khu 6, sau 1975 làm Bí thư Tỉnh ủy Lâm Đồng, rồi làm Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao; bảo vệ cho Năm Thắng (Đỗ Quang Thắng - Chánh Văn phòng khu ủy, sau về làm Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra Nhà nước và làm cần vụ cho ông Chín Cán (Phạm Thuần) - Trưởng Ban An ninh Khu 6; rồi một số tham gia bảo vệ cho Ban Kinh tài chuyển tiền đi bộ xuyên rừng từ Trung ương cục về Khu 6. Sau đó, tăng cường cho các tỉnh trong khu đến sau 30/4/1975 mới tập trung về đại đội. Trong suốt 3 năm, đại đội đối phó với đói khát, bệnh tật, bị địch bao vây đánh phá dữ dội nhưng với tinh thần người chiến sĩ công an, đối với địch phải cương quyết và khôn khéo, theo lời Bác Hồ dạy, đại đội đánh trả một cách quyết liệt và rút lui khi cần thiết, bảo vệ sinh mạng cho lãnh đạo và cho đơn vị mình. 

Bây giờ, các anh em đều ở độ tuổi U80 nhưng hàng năm lại tìm về bên nhau tay bắt mặt mừng rồi dần dần thiếu vắng vì lần lượt về với đất. Con cháu của anh em C25 giờ được học hành bài bản, vì vậy, mỗi lần gặp các anh em bạn của bố đều ngã mũ cúi đầu trân trọng, đó là điều đáng mừng. Chị Linh Thị Nhâm, vợ của Đại đội phó Đinh Hùng Dụng đã mất, là người chủ động thường xuyên giúp anh em phương tiện đi lại và cháu Đinh Hùng Dũng con trai cả của anh Dụng hàng năm chở mẹ đi thăm hỏi những người lính của bố ngày xưa trong những lúc ngặt nghèo và đến thăm tang lễ cho các chú tuổi cao về với đất. Đó là nghĩa cử cao đẹp dành cho anh em C25...