Biết là sẽ nhiều gian nan dọc đường nhưng, sợ gì, mình cứ bám chắc lấy mấy ông nhà văn đi nước ngoài quốc doanh là được. Chẳng nhẽ Hội nhà văn đi hội thảo lại không có ai thạo tiếng Anh sao!
Chuyến bay từ Hà Nội đi Tokyo của Hãng hàng không Nhật Bản cất cánh lúc 23g30. Từ Hà Nội đi Tokyo mất khoảng 6 tiếng. Sau đó đổi máy bay đi Chicago. Từ Chicago lại đổi máy bay đi Boston. Hành trình chuyến đi trong vé của mình đã ghi rõ ràng như vậy. Biết là sẽ nhiều gian nan dọc đường nhưng, sợ gì, mình cứ bám chắc lấy mấy ông nhà văn đi nước ngoài quốc doanh là được. Chẳng nhẽ Hội nhà văn đi hội thảo lại không có ai thạo tiếng Anh sao!
Máy bay hạ cánh xuống Tokyo khi trời vừa sáng. Nhà ga sâu hun hút. Đường đi dích dắc chẳng biết đâu mà lần. Ngó nghiêng bảng nọ bảng kia nhưng một hồi không ai đưa ra được quyết định gì. Chị Vũ Thị Hồng sốt ruột giục Trần Huy Quang đi hỏi thăm. Trần Huy Quang khủng khỉnh. Kén chọn từ từ. Thì ra vốn tiếng Anh của Trần Huy Quang cũng chỉ đủ để phân biệt mấy cái “gut” mà thôi. Ví như là “gút” buổi sáng, “gút” buổi tối, “ gút” tạm biệt… Còn thì không thấy biết thêm được từ nào nữa. May mà có cả 10 tiếng đồng hồ ở Tokyo nên mãi rồi cũng hiểu ra. Phải 9 giờ người ta mới cho biết cửa đi Chicago cửa nào. Mình thương anh Nguyễn Quang Hà quá. Anh là trưởng đoàn. Anh thừa tinh thần đầu tàu gương mẫu nhưng không biết tiếng Anh. Sức khoẻ thì kém nhất đoàn. Sân bay Tokyo mênh mông. Lại lạc lung tung. Phải lộn đi, lộn lại mấy lần. Bởi thế anh đầu tàu gương mẫu bằng cách bám theo anh em với một tinh thần cố gắng rất đáng nể. Sau 9 giờ thì tạm ổn. Biết được cửa đi Chicago là yên tâm rồi. Bấy giờ bốn anh em mới thở phào khoan khoái tận hưởng sự an bình của những người làm chủ được vận mệnh mình trong chốn bất đồng về ngôn ngữ. Thì ra cái bịch to tướng mà Trần Huy Quang khệ nệ bên mình là bịch lương thực, thực phẩm. Chị Hồng còn chu đáo hơn. Chị chuẩn bị lương thực, thực phẩm mang theo như là cho chuyến du hành vũ trụ. Anh Nguyễn Quang Hà từ Huế ra không phải chuẩn bị gì. Mình chẳng mang gì sất. Đồ ăn thức uống sân bay thiếu gì. Chỉ đắt thôi. Mua cũng dễ. Muốn ăn gì chỉ vào thứ đấy. Không cần mặc cả. Đưa dư tiền một chút họ sẽ thối lại cho. Thế là thêm được một mớ tiền lẻ. Dễ tiêu. Một công đôi chuyện. Trần Huy Quang mời ăn xôi với ruốc bông. Chị Vũ Thị Hồng mời ăn bánh mì xúc xích. Mình ưu tiên ăn xôi vò của Trần Huy Quang. Bánh mì chị Hồng còn có thể để lâu được. Ngồi ăn, mình nhìn ra ngoài cửa kính. Một bờ làng mờ xanh ẩn hiện trong sương mù, y như làng quê mình những ngày giáp tết. Nhật Bản giống Việt Nam ở làng quê. Từ trên máy bay nhìn xuống thấy những dải ruộng hẹp. Bờ cách bờ chỉ chừng vài cái dải yếm. Nhà cửa làng xóm ở hết trên các cồn cao. Y chang quê mình. Người Nhật cũng nhỏ thó. Ngoại trừ mấy cô tiếp viên hàng không vừa cao vừa đẹp. Còn thì những nhân viên phục vụ tại sân bay mặc quần áo bảo hộ có mấy sọc dạ quang giống như người mình. Mình nghĩ, tý nữa hết ca, họ thay quần áo bảo hộ lao động, lái xe ô tô về nhà, họ sẽ là những thượng đế. Vợ Nhật chiều chồng ai chẳng biết! Còn bây giờ, họ là servire, còn mình là thượng đế.
Lần đầu đi máy bay của Hãng hàng không American, mình thấy, hình như họ không chọn tiếp viên hàng không như kiểu của các nước châu Á. Mình thấy có nhiều “bà” tiếp viên chứ không phải toàn “cô” tiếp viên. Mình ngồi cạnh một ông Tây to, đen nhấp nhánh. Cái giày của ông trông như cái thuyền. Mình ngạc nhiên. Không biết chân như ông Tây này thì mua giày ở đâu? Bên phải mình là một ông Nhật Bản. Ông này lại nhỏ thó. Vừa nhỏ vừa lùn. Ông này suốt buổi chỉ ngồi chơi điền số vào mấy cái ô trong cuốn sổ mang theo. Ông chơi mê mải. Trên máy bay mình thấy tất cả đều im lặng. Thỉnh thoảng lắm mới có tiếng mấy cô tiếp viên hàng không xì xồ xì xào vài câu tiếng Anh. Từ Tokio tới Chicago bay mất khoảng 11 tiếng. Vì là bay thuận theo chiều quay của trái đất nên sau 11 tiếng mình lại vẫn đang ở ngày như cũ. Nghĩa là, mình bay lúc 18g 30 ngày 16 thì 11 tiếng sau là vào khoảng 4g 30 chiều cùng ngày.
Sân bay Chicago là sân bay trung chuyển. Mình hoàn toàn không biết phải làm thủ tục nhập cảnh tại đây. Thủ tục nhập cảnh là chuyện khó nhất đối với những người không biết tiếng Anh. Bốn nhà văn đứng như trời trồng trước vạch đỏ quầy làm thủ tục. Ngoài cái tên điền được vào tờ khai, còn thì bỏ trống tất. Anh Nguyễn Quang Hà giục Trần Huy Quang đi hỏi. Nhân viên hàng không ở Chicago không mấy thân thiện. Ai nấy lo làm việc của họ. Khi đã vãn khách, người ta vẫy chị Hồng bước vào quầy thủ tục. Ông “công an” cửa khẩu hàng không bất lực trước những câu hỏi mà ông cho là thông thường nhất trên đời, lẽ ra ai cũng phải trả lời được. Và cuối cùng, căn cứ vào giấy tờ mà chị Hồng mang theo, ông khai giúp. Và chị được thông qua. Còn lại 3 anh em được dẫn tới một chiếc ghế trống gần đó ngồi chờ. Chừng nửa tiếng sau, có một nhân viên được cử đến khai giúp. Bắt đầu là mình, rồi Trần Huy Quang, rồi Nguyễn Quang Hà. Và rồi thủ tục cũng xong. Bấy giờ mấy anh em mới sực nhớ. Chị Hồng lạc đâu rồi. Điện thoại không có. Lạc nhau ở sân bay có mà khóc. Đang loay hoay tìm trước cửa ga thì chị Hồng từ đâu chạy tới. Chị bảo nãy giờ các anh ở đâu. Tôi lo đến phát khóc rồi đây này. Kia! Hành lý họ vứt ra kia kìa! Một đống hành lý vô thừa nhận được vứt vào một góc không mấy lịch sự. Mình còn kịp hài hước, rằng, bọn trộm cắp quốc tế nó tinh thật. Nó biết trong những túi xách, trong những vali kia, ngoài những áo quần đã cũ, còn lại là những thứ sinh hoạt cá nhân chẳng mấy giá trị. Và sách. Không có gì nữa cả. Nó mà nhầm với vàng bạc châu báu thì gay to rồi.
Mình công nhận Trần Huy Quang là người điềm tĩnh. Chị Hồng là người hay lo. Còn anh Nguyễn Quang Hà đầy tinh thần trách nhiệm. Mấy anh em ngồi chờ máy bay đi Boston tại cửa H8. Đến giờ bay mới ngớ ra: Đây là máy bay đi Washington DC chứ không phải đi Boston. Tá hoả vì nhỡ chuyến bay. Trình vé cho nhân viên hàng không. Và họ chỉ cho về cửa K18. Anh Nguyễn Quang Hà sốt ruột. Anh giục Trần Huy Quang đi gọi điện báo cho Boston biết máy bay nhỡ chuyến. Trần Huy Quang lại khủng khỉnh. Anh nhờ mình đi đổi tiền xu để gọi điện thoại công cộng. Mình ra mua chai nước và 2 quả chuối. Họ thối cho một nắm tiền xu. Nhưng sao đã bỏ tiền xu vào mà điện thoại vẫn không gọi được. Mình nói dối là không ai bốc máy. Thú thật là mình chẳng hiểu giá trị các đồng xu thế nào. Chữ nhỏ quá. Mắt mũi lại kèm nhèm. Và không hiểu đồng xu Mỹ ghi số thế nào? Gọi điện thoại phải bỏ bao nhiêu đồng có trời mới biết.
Mình có nhiều lựa chọn sai lầm. Nhưng việc lựa chọn đi Mỹ cùng mấy nhà văn là sáng suốt. Mà thực ra là cái số nó thế. Mình hẹn hò với bạn sẽ sang Mỹ vào thời gian đó. Và cũng đúng thời gian đó có đoàn này. Cứ như là định mệnh vậy. Đi với các nhà văn tuy dấm dớ về tiếng Anh nhưng vui. Giá cứ vô sự trơn tru như là đi theo tour du lịch thì có gì để nói. Và, hài hước sao, không biết tiếng Anh lẽ ra nên tự trách mình không chịu học, thì mình lại nghĩ khác: Người Mỹ cũng có biết tiếng Việt mình đâu. Họ đi đâu cũng chỉ xài có thứ tiếng Anh thôi. Vậy mà cả thế giới phải học, phải hiểu, phải nghe được tiếng của Mỹ. Còn mình, tiếng Việt mình cũng “ngon” thế sao không ai thèm biết, thèm học là sao? Phải làm sao để tiếng Việt trở thành thứ tiếng ai cũng phải biết, phải học, phải dùng mọi lúc mọi nơi? Phải làm sao để các thế hệ nhà văn tiếp theo không phải khổ sở khi đi ra thế giới mà không biết tiếng Anh? Và cứ thế mình miên man nghĩ ngợi trong một tâm thế của kẻ trượng phu, kẻ sĩ, của kẻ độ thế phù nhân rồi thiếp ngủ đi giữa cái thành phố thủ đô của nước Mỹ rất thanh bình và yên tĩnh này.
Washington, 22/6/2012
LÊ HUY MẬU