Bạn tôi làm công tác nghiên cứu folklore đã buông lửng một câu nghe ra rất tê tái: "Kỹ nghệ tãn sớ (đan gùi) của người K'Ho, từng một thời tinh xảo, nay đang dần lùi xa". Tôi trấn an: "Chẳng phải hằng ngày chúng ta vẫn thường thấy người K'Ho mang gùi xuống phố mưu sinh đấy còn gì".
Bạn tôi làm công tác nghiên cứu folklore đã buông lửng một câu nghe ra rất tê tái: “Kỹ nghệ tãn sớ (đan gùi) của người K’Ho, từng một thời tinh xảo, nay đang dần lùi xa”. Tôi trấn an: “Chẳng phải hằng ngày chúng ta vẫn thường thấy người K’Ho mang gùi xuống phố mưu sinh đấy còn gì”.
Nói là nói vậy, chứ tôi thừa biết bạn mình đã có lý khi nói ra điều đó. Bởi, trong guồng quay của những vận động tự nhiên và xã hội để tạo dòng chảy mới cho sự phát triển, đã vô hình trung mang theo những thách thức đối với sự tồn sinh cũng như sự bảo lưu văn hóa. Tiến hóa và biến hóa là tất yếu. Sự tiếp thu và đào thải, hội nhập sẽ làm nảy sinh những sắc thái về giá trị mới. Gien giống nòi và gien văn hóa tộc người sẽ được bồi bổ, phong phú thêm lên và những giá trị văn hóa dần dần được định hình ở giai đoạn mới. Tuy nhiên, trong lúc những giá trị văn hóa mới chưa thật sự định hình rõ rệt, thì văn hóa tộc người lại đặt ra những thách thức nội tại, trước nhu cầu duy trì và phát triển tự nhiên, lại không thể tách mình ra khỏi dòng chảy đô thị. Chiếc gùi của người K’Ho cũng nằm trong dòng chảy tự nhiên ấy và vì thế nguy cơ mai một là có thật. Bà Ka Phêm (xã Đinh Trang Hòa, huyện Di Linh) nói: “Tôi nghĩ, chiếc gùi của người K’Ho rồi sẽ biến mất. Bởi ngày nay đang có quá nhiều sản phẩm công nghiệp hiện đại chiếm ưu thế!”.
|
Ông K’Sót và chiếc gùi do chính tay mình đan |
Bà Ka Phêm cho rằng, thực tế này không thể phủ nhận, một khi những vật dụng công nghiệp như ba lô, giỏ xách, túi xách đã quá phổ biến và chỉ cần có tiền (giá rất rẻ) là được quyền sở hữu ngay lập tức. Trong khi đó, để làm ra một chiếc gùi, phải mất cả tháng trời. “Nhưng cái chính là những vật dụng công nghiệp bày bán ở chợ thì chỉ có thể dùng thông thường chứ rất ít tính nghệ thuật, không thể so sánh được với các sản phẩm đan lát của người K’Ho” - bà Ka Phêm tỏ rõ sự tiếc nuối.
Theo bà Ka Phêm, gùi của người K’Ho có nhiều kích cỡ, to nhỏ, cao thấp khác nhau. Nhưng phổ biến nhất là sớ dà, sớ sơn và sớ bơnơr. Mỗi loại gùi có công năng và công dụng khác nhau. Theo đó, sớ dà dùng để gùi nước hoặc gùi củi; sớ sơn là chiếc gùi sử dụng vào việc gùi lúa (mỗi chiếc có thể gùi được 50kg lúa); sớ bơnơr lại chủ yếu được dùng cho việc đi hội. Ngoài ra, người K’Ho còn có sớ nùng, sớ ọ...
Sớ drộm và sớ bnơl là sản phẩm đặc biệt của đồ đan K’Ho, dành cho cặp vợ chồng mới cưới. Sớ drộm (có nắp đậy) là chiếc gùi dành cho chú rể. Sớ bnơl (không có nắp đậy) là chiếc gùi dành cho cô dâu. Sớ drộm và sớ bnơl được đan rất kỹ lưỡng, công phu, có nhiều họa tiết trang trí. Ngày cưới, một chiếc ùi (váy) mới được phía nhà gái xếp gọn gàng, đặt trên sớ drộm và sớ bnơl, rồi sau đó trao lại cho hai vợ chồng. Bên trong sớ drộm và sớ bnơl đã đựng sẵn những vật dụng, tư trang cần thiết cho một gia đình mới, gồm: chăn, chiếu, xà gạc, bát đĩa, xoong nồi...
Người K’Ho có “kỹ nghệ” đan được nâng lên đến mức nghệ thuật. Kỹ nghệ này thể hiện ở hình dáng đa dạng, hoa văn đan cài và kỹ thuật đan khó. Chiếc gùi của người K’Ho thường có 3 phần: miệng gùi, thân gùi và đế gùi. Miệng gùi (bơk sớ) được cạp bằng thanh tre già; sau đó, dùng dây mây cố định lại, tạo thành một vòng tròn cứng cáp. Thân gùi (sa sớ) đan bằng cây đơr (một loại cây thuộc họ tre nứa). Đế gùi (yơng sớ) được làm bằng gỗ, nhằm tạo sự vững chãi để khi đặt trên mặt đất không bị ngã đổ. Quai gùi (ce sớ) bện bằng dây mây, to bản. Bên cạnh đó, chiếc gùi còn có thêm drài sớ (dây trang trí) và tôr sớ (dây dùng để níu chặt các vật dụng đựng bên trong gùi khỏi rơi ra ngoài).
Muốn làm một chiếc gùi, đàn ông K’Ho phải vào rừng tìm cây đơr, đánh dấu lại và để đấy, đợi thời gian nhất định trong năm mới đến đốn. Kinh nghiệm dân gian K’Ho chỉ ra rằng, trong một năm không phải lúc nào cũng có thể vào rừng đốn đơr để đan gùi. Thời gian tốt nhất được người K’Ho lựa chọn làm thời điểm để đốn cây đơr làm nguyên liệu đan gùi là tháng sáu, tháng bảy, vào những đêm không có ánh trăng. “Nếu gặp những hôm trăng sáng, người K’Ho sẽ không đốn. Vì vào thời điểm này, đơr thường bị mọt ăn, đan gùi không được” - bà Ka Phêm cho biết. Người phụ nữ K’Ho này còn cho biết thêm: “Những cây đơr được chọn thường có mắt dài, thân thẳng, ngọn cong vút”. Sau khi đốn, đơr được đem về đẵn ra thành từng khúc, rồi pha lạt, chuốt nan và chỉ lấy nan cật (vỏ). Vì loại này vừa dẻo vừa bền. Nan chuốt xong đem phơi ở chỗ râm mát cho khô. Khi bắt đầu đan lại mang số nan này nhúng vào nước để có độ dẻo, dễ đan hơn. Gùi đan xong, người K’Ho không đem dùng ngay mà thường được đem treo ở gác bếp nhiều ngày. Hơi nóng của lửa, của khói xông lên, hun chiếc gùi thêm săn chắc, bền đẹp và còn tránh được cả mối mọt. Thế rồi gùi theo chân người K’Ho lên rẫy. Gùi theo người K’Ho vào rừng, xuống suối. Gùi theo người K’Ho đi hội. Gùi còn theo người K’Ho đi cả vào văn hóa và trở thành nét đặc trưng văn hóa riêng biệt. Cứ thế, đong đưa, đong đưa…
Đáng tiếc, khi rừng đang ngày lùi xa, cộng thêm số người già có tay nghề qua đời dần, lớp trẻ lại thích dùng những đồ dùng tân thời. Vì thế, kỹ nghệ đan lát của người K’Ho cũng dần dần mất đi. Qua giới thiệu của bà Ka Phêm, tôi tìm đến nhà ông K’Sót (89 tuổi, ở thôn 5B), người duy nhất của xã Đinh Trang Hòa còn giữ lại nghề đan lát của tiên tổ, để hỏi mua một chiếc gùi, nhưng ông bảo là không bán, mà chỉ làm cho con cháu trong gia đình. Nhìn người đàn ông đã gần bước qua 90 mùa rẫy, đang giữ gìn, bảo vệ nét văn hóa truyền thống của cộng đồng K’Ho, tôi tự hỏi, không biết ở Tây Nguyên này còn có bao nhiêu người như ông?
TRỊNH CHU