Bên kia Cổng Trời

09:10, 16/10/2014

Từ Suối Vàng (cách Đà Lạt gần hai mươi cây số) vượt đỉnh núi cao ngất ngưởng có tên gọi là Cổng Trời rồi xuyên rừng già và băng qua "mấy chục cái cán rựa" mới đến được Đưng Knớ - xứ sở của "ma rừng" và cũng là "xứ sở của ruồi vàng"...

Từ Suối Vàng (cách Đà Lạt gần hai mươi cây số) vượt đỉnh núi cao ngất ngưởng có tên gọi là Cổng Trời rồi xuyên rừng già và băng qua “mấy chục cái cán rựa” mới đến được Đưng Knớ - xứ sở của “ma rừng” và cũng là “xứ sở của ruồi vàng”. Đưng Knớ là một xã của huyện Lạc Dương nằm sát nách phố thị Đà Lạt nhưng không phải là phố thị, nằm sát nách đồng bằng Đam Rông nhưng không phải là đồng bằng. Ở Lâm Đồng, Đưng Knớ của huyện Lạc Dương là vùng đất chênh vênh như ốc đảo nhưng gần phố; và ngược lại, là xứ sở của những huyền thoại nhưng không quá hoang vu. Xứ sở này sao cứ xa mà gần, chông chênh nhưng lại có một nền tảng vững chắc, vừa thân quen nhưng lại rất lạ lẫm... 
 
Thực tình mà nói thì tôi không thể nhớ được bao nhiêu lần đã đến với “xứ sở ruồi vàng” Đưng Knớ. Nhưng chắc chắn một điều rằng đây là chuyến đi dễ dàng nhất của tôi (dưới góc độ giao thông) đến với “ốc đảo Đưng Knớ” cách Đà Lạt chỉ không đến 60km. Ngày trước, để đi Đưng Knớ, tôi luôn chuẩn bị tinh thần có thể phải ngủ qua đêm giữa rừng già. Còn nay thì không, để vượt Cổng Trời đến với xứ sở “ma rừng”, ngay lúc xuất phát từ Đà Lạt, tôi tự... trấn an là phải đi về trong ngày. Và đúng là như vậy; nhưng cảm giác chông chênh, hoang vu, “ma mị”... của Đưng Knớ vẫn nguyên trong tôi sau khi quay lại Cổng Trời để về Đà Lạt.
 
Bức tranh nông thôn Đưng Knớ hôm nay
Bức tranh nông thôn Đưng Knớ hôm nay
 
Vì... con đường
 
Tôi đến được trụ sở UBND xã Đưng Knớ đã gần trưa. Hỏi một cán bộ xã đang nghe điện thoại ở khoảnh sân rộng và khá khang trang, anh bảo “Các đồng chí lãnh đạo đang họp với đoàn cán bộ của huyện về vấn đề xây dựng nông thôn mới”. Dạo quanh các phòng, ban, tất cả đều đang dự họp nên phòng ốc vắng hoe. Cuộc họp về xây dựng nông thôn mới giữa đoàn cán bộ huyện với xã kéo dài đến hơn 12 giờ trưa. Dự họp, nhiều đại biểu nói nhiều về con đường từ Đà Lạt vào Đưng Knớ. Với Đưng Knớ, đường giao thông là tiêu chí quan trọng bậc nhất trong những tiêu chí về xây dựng nông thôn mới. Bao nhiêu là “chuyện” từ con đường này mà ra, mà nên, mà thành. Người ta bảo Đưng Knớ “ốc đảo”, Đưng Knớ “ma rừng”... là bởi tại con đường. Mùa mưa những năm trước đây, “ốc đảo” Đưng Knớ từng bị cô lập đến vài tháng liền. Những tháng bị cô lập, những thứ nhu yếu phẩm và thực phẩm thiết yếu như gạo, mắm, muối, cá khô, quần áo, xoong nồi... ở Đưng Knớ tăng gấp vài lần so với giá ở phố thị Đà Lạt là chuyện bình thường. 
 
“Thu nhập đã kém, lại phải mua gạo từ 12.000 lên 30.000 đồng/kg trong những tháng “ốc đảo”, cuộc sống người dân ở đây càng thêm khó khăn” - Phó Chủ tịch xã Rơông Ha Nhang nhớ lại. Tôi cũng nhớ lại chuyện này trước khi vào UBND xã nên đã dừng lại với thời gian vừa đủ để vào một quán nước ven đường. Chủ quán nước là một người đàn bà khoảng hơn năm mươi tuổi (tôi đoán vậy), hỏi: “Anh là khách ở xa đến à?”. Tôi gật rồi gọi lon bia 333 giải khát. Nhìn quanh phòng, bia thì đủ loại từ Heniken đến 333 đến Sài Gòn xanh; rồi nào là gạo, mắm muối, cá khô, giấy vệ sinh... chẳng thiếu thứ gì. Hàng quán vùng sâu này chẳng kém so với Đà Lạt. Tôi gọi lon bia với mục đích là chỉ để... khảo giá. Nhưng thật bất ngờ khi tính tiền, chị chủ quán bảo: “Mười ngàn!”. Tôi tò mò: “Rẻ thế ạ? Còn rẻ hơn ở Đà Lạt!”. Chị cười: “Bây giờ, hàng quán ở đây nhiều rồi, đường sá đi lại không quá khó như trước, hàng hóa ê hề, bán đắt một lon bia chỉ một ngàn đồng thôi là hôm sau không còn khách!”. Tôi cười với chị: “Lại “tại” con đường, phải không?”. Lúc trên đường đi, tôi song hành cùng với anh bạn tên Khánh chuyên chở mắm muối, cá khô, bánh kẹo... vào Đưng Knớ. Chiếc xe máy của Khánh là cái chợ di động. Dừng giải lao giữa rừng già, tôi hỏi Khánh: “Vất vả thế, nhưng lời nhiều, cũng bõ công nhỉ?”. Khánh thở dài đánh sượt: “Ôi dào, nào chỉ mình em đâu! Giờ, đi lại thuận tiện, mỗi ngày có đến mấy “cái chợ di động” như thế này. Vào đó, mỗi món chỉ kiếm lời “hơi hơi” một chút là được rồi. Hét trên trời, chả ai thèm ngó đâu anh ạ!”. Hóa ra, lại vì... con đường!
 
Niềm vui tình cờ của tôi trên đường vào với “ốc đảo” Đưng Knớ là như vậy!
 
Ngôi trường của hai chị em ngày trước giờ đã khang trang
Ngôi trường của hai chị em ngày trước giờ đã khang trang
 
Mảng màu không “vui mắt” 
 
Chỉ mới “xa” Đưng Knớ với thời gian không dài nhưng nay vào lại đây, tôi dễ dàng nhận ra mấy ngôi nhà mới xây khá khang trang nằm cạnh những ngôi nhà gỗ đơn sơ “truyền thống”. Hỏi anh Rơông Ha Nhang, tôi mới biết những ngôi nhà xây vài ba mê ấy không phải của người Kinh. “Của người dân tộc thiểu số mình cả đấy! Bây giờ, nhiều hộ khá giả lắm rồi...” - Ha Nhang nói. Rồi, Ha Nhang hạ giọng: “Mà, khổ lắm anh ạ! Bà con mình, người làm thì làm cật lực, còn người chơi thì cũng chơi... cật lực!”.
 
Hóa ra, cái nếp nghĩ “đàn ông chơi, đàn bà làm” của chế độ mẫu hệ như cách nay hàng trăm năm vẫn còn sâu đậm trong đầu của người dân tộc thiểu số Cill ở Đưng Knớ đến nhường kia. Trên đường ngang qua Lán Tranh - một thôn của Đưng Knớ cách trung tâm xã về phía ngoài khoảng gần mười cây số, buổi sáng vẫn còn sớm, đang nắm tay lái thật vững, tôi bỗng bắt gặp một người đàn ông “khật khưỡng” suýt húc vào. Đạp phanh kịp nhưng chiếc xe hai bánh của tôi đã nằm sát sạt bên hông người đàn ông trung niên. Người đàn ông ngoác miệng cười vung vào mặt tôi: “Kon Duôn (người Kinh) mày hay bảo “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt” hả? Thì hãy “ngồi xuống đây” và “say cho đến hết cuộc đời” vậy, nhé... nhé...”. Nghe người đàn ông lạ hoắc xướng những ca từ trong những bài hát, cái máu nhạc trong người tôi bùng lên: “Này, anh bạn, gần đây có chỗ nào vừa “uống” được và vừa có cây đàn ghi-ta không?”. Người đàn ông lại ngoác mồm: “Dễ ợt! Không có đàn, ta chỉ uống và hát chay. Dám không?”. Dĩ nhiên là tôi “dám”! Vào quán, lấy lý do vì còn phải chạy xe và “làm việc với cấp trên” nên tôi chỉ “hầu chuyện” ông anh (thực ra, anh chàng ít tuổi hơn tôi) mà thôi. “Ông anh” cao hứng: “Rừng núi giang tay nối lại biển xa...”. Chuyện trò với “ông anh” chỉ dăm phút, tôi đủ để biết gia cảnh của anh ta: Là cha của bốn đứa con nheo nhóc, nhà cũng có đất trồng cà phê tuy không nhiều nhưng vợ của anh ta là người đứng ra gánh vác tất tật, còn bản thân anh chàng không phải làm việc gì cả. Bon Niêng Ha Gioen - tên người đàn ông - sau vài bài hát đã gục mặt xuống bàn. Bà chủ quán vừa đưa tay cầm mấy chục ngàn tiền ba lon bia, vừa trách: “Nó say từ sáng đến tối vậy đấy. Vợ con thì chạy gạo từng bữa...”. Đem chuyện trên kể lại với Phó Chủ tịch xã Rơông Ha Nhang, anh bảo: “Ngoài Lán Tranh có Bon Niêng Ha Gioen, còn ở đây - Bon Gia Đưng Knớ (tên xã ngày nay), có ông Nơtrang Hà Choong cũng y hệt. Hà Choong cũng suốt ngày lang thang uống rượu. Cả sáu đứa con chỉ một mình bà vợ lo...”.
 
Phó Chủ tịch xã Rơông Ha Nhang nói như... đang đọc báo cáo: “Đưng Knớ hiện có 406 hộ - 1.964 khẩu; trong đó, người dân tộc thiểu số (chủ yếu là người Cill) chiếm đến 95%. Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo của xã là 21%...”. Tôi cắt ngang để cho câu chuyện giữa tôi và Ha Nhang “mềm” hơn: “Với vùng sâu Đưng Knớ, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo còn 21% là quý rồi. Nhưng sao không “giảm” những người như Nơtrang Hà Choong, Bon Niêng Ha Gioen... bằng cách khuyên họ chí thú làm ăn?”. Ha Nhang xa xăm: “Cái nếp nghĩ “đủ ăn” và đàn bà là người chịu trách nhiệm chính trong gia đình vẫn còn đậm trong đầu những con người ấy. Khó chuyển lắm!”. Rồi, anh bảo: “Nhưng cũng có những người tầm tuổi bốn đến năm mươi chí thú làm ăn...”. 
 
Phụ nữ Cill một thời là trụ cột của gia đình
Phụ nữ Cill một thời là trụ cột của gia đình
 
Bức tranh nông thôn mới
 
Trở lại chuyện những ngôi nhà xây: Tôi cứ nghĩ chủ nhân là người Kinh nhưng không phải. Ha Nhang nói như thể đúc kết: “Cũng tầm tuổi 40 - 50 nhưng nếu ai xóa được cái suy nghĩ “mẫu quyền” để chí thú làm ăn là được, là khá giả, là xây được nhà thôi mà! Và, điều quan trọng nữa là họ phải dạy đàn con đàn cháu biết tính toán làm ăn”.
 
Phó Chủ tịch xã Rơông Ha Nhang cho tôi một vài địa chỉ để tôi tìm gặp chủ nhân những ngôi nhà xây. Chil Múp Ha Húy (ở thôn 1, Đưng Knớ) là một trong những địa chỉ đó. Ngôi nhà xây của Ha Húy nằm ngay phía đầu làng. Năm nay, Ha Húy chỉ tầm tuổi 50. Với 3ha cà phê và 7 sào ruộng cùng với sự tảo tần của người vợ, hằng năm, gia đình Ha Húy thu nhập vài trăm triệu đồng. Ha Húy trước đây học ở Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt rồi về dạy ở Đưng Knớ. Tuy có lương giáo viên nhưng đó không phải là con số “trên trời” mà điều quan trọng là ông nhà giáo người Cill này biết tổ chức sản xuất. Nhờ đó, chẳng bao lâu, Ha Húy đi làm bằng xe uoát và xử lý công việc nhà (hàng quán) với chiếc xe bốn bánh chở hàng từ xa. “Phải năng động cái đầu để hai đứa con mình có tiền học đại học chớ!” - Ha Húy có vẻ khiêm tốn. Còn đây là Kơsa Ha Já, 49 tuổi, ở thôn 2: “Nhà mình chỉ có 2ha cà phê thôi. Nhưng nhờ cái là mình biết học kỹ thuật chăm sóc nên năng suất kha khá. Rồi, vừa đi dạy, mình vừa tranh thủ làm vườn nên kinh tế gia đình giờ đã khá rồi”. Còn ở Lán Tranh, trái ngược với hình ảnh Bon Niêng Ha Gioen là ông Rơông Ha Mang (52 tuổi): “Mình có 4ha cà phê nhưng có đến 4 đứa con, không làm thì lấy gì cho chúng ăn học”. 
 
Đi vào từng gia đình, bức tranh nông thôn mới của Đưng Knớ là như thế. Còn rộng ra, theo Phó Chủ tịch xã Rơông Ha Nhang cung cấp: Đưng Knớ có tổng diện tích tự nhiên gần 20.000ha; trong đó, diện tích đất nông nghiệp chiếm những 17.958,15ha (tôi muốn nhấn mạnh con số này nên không làm tròn). Chắc chắn con số về diện tích đất nông nghiệp này sẽ là rất “ấn tượng” nếu đem chia cho con số tổng số hộ chỉ trên dưới 400 (báo cáo là 399 hộ, số liệu do Phó Chủ tịch xã cung cấp là 406 hộ). Anh Ha Nhang nói thêm: “Năm 2014 này, xã có 80 hộ được huyện Lạc Dương đầu tư gần 700 triệu đồng để thâm canh cây cà phê (hơn 69ha) theo mô hình điểm. Rồi, bên cạnh đó còn là các nguồn như vốn xây dựng cơ sở hạ tầng là gần 1,2 tỷ đồng, vốn lồng ghép hơn 1,4 tỷ đồng, vốn dự án Flitch 0,7 tỷ đồng, vốn hỗ trợ của trung ương và tỉnh 5 tỷ đồng... Đến nay, Đưng Knớ đã đạt 7 tiêu chí về xây dựng nông thôn mới...”. Thú thực, con số 7 này có thể “không là gì cả” nếu xét về mặt hình thức, vì xét ở phạm vi cả tỉnh thì Lâm Đồng không còn xã chỉ đạt 5 tiêu chí mà bình quân đã đạt con số 10,82 tiêu chí (cao hơn tỷ lệ bình quân cả nước). Song, với Đưng Knớ, đây lại là con số thật ấn tượng: Cách nay mười năm, tỷ lệ hộ nghèo của xã còn đến 54%!
 
Bức tranh nông thôn mới của Đưng Knớ có điều để hy vọng bởi những người tầm tuổi 40 - 50 biết làm ăn, tính toán, chỉn chu không ít; rồi, họ biết “truyền lửa” cho cháu con không ỷ lại. Buổi chiều, tôi lại “một mình một ngựa” trên con đường 722 đang mở vào Đưng Knớ trong màn mưa dày kín. Tôi chạy hơi chậm bởi ken dày những giọt nước trời; nhưng, xuyên qua màn mưa vẫn là ánh dương đang hiện hữu.
 
Phóng sự: Khắc Dũng