Sa Vĩ - nơi địa đầu Tổ quốc

08:12, 01/12/2016

Tôi thật háo hức khi được mời về Móng Cái (Quảng Ninh) để dự hội thảo "Văn học, Nghệ thuật với đề tài biển đảo".  

Tôi thật háo hức khi được mời về Móng Cái (Quảng Ninh) để dự hội thảo “Văn học, Nghệ thuật với đề tài biển đảo”.  
 
Móng Cái - Vùng địa đầu đất nước nếu tính theo đường biển. Tuy nhiên, nếu tính chi li hết điểm đầu tiên chấm bút vẽ hình chữ S chính là mũi Sa Vĩ nằm ngay trên bãi biển Trà Cổ cách trung tâm thành phố Móng Cái khoảng 7 km. “Sa” là cát, “Vĩ” là đuôi, gọi là Sa Vĩ. Mỗi khi thủy triều xuống ở đây nổi lên một doi cát dài. Nếu điểm cực bắc biên giới đất liền thuộc xã Lũng Cú (huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang) thì đường biên giới biển khơi đây chính là Sa Vĩ. Ở Sa Vĩ có cụm thông tin cổ động khá độc đáo. Công trình này bao gồm 3 phần: Phần quảng trường, phần cụm công trình chính và phần nhà dịch vụ, quy tụ thành một quần thể kiến trúc đẹp, hiện đại mang đậm bản sắc dân tộc. Tôi có cảm giác hào khí thiêng non nước với trầm tích văn hóa lịch sử ngàn năm như tụ về đây từ kinh đô Hoa Lư đến bóng dáng vua Hùng Vương dựng nước. Và ấn tượng nhất với tôi là ngay từ buổi sáng đầu tiên đặt chân lên Sa Vĩ chúng tôi đã có buổi chào cờ Tổ quốc ở ngay tại cụm công trình này, do đồng chí Phó Bí thư Thường trực tỉnh Quảng Ninh chủ trì. Thật tình cờ tôi được gặp nhà thơ Nguyễn Việt Chiến, người đã từng nổi tiếng với bài thơ “Tổ quốc nhìn từ biển” với những câu thơ có tính dự báo xa xót nhưng cũng đầy khí phách tự hào: “Nếu Tổ quốc nhìn từ bao hiểm họa/ Đã mười lần giặc đến từ biển Đông/ Những ngọn sóng hóa Bạch Đằng cảm tử / Lũ Thoát Hoan bạc tóc khiếp trống đồng”. Anh bảo: “Mình vừa có chuyến đi Trường Sa ra với những người lính đảo. Nay được về mũi Sa Vĩ lại được chào cờ Tổ quốc nơi đây thật cảm động biết bao”. Cùng bài quốc ca, tôi và bạn bè tôi đã hát bao lần sao sáng nay không thể cầm nước mắt khi nhìn lên lá cờ đỏ sao vàng tung bay dưới nền trời xanh. 
 
Lễ chào cờ ở Khu công trình thông tin cổ động Sa Vĩ.  Ảnh: N.N.Phú
Lễ chào cờ ở Khu công trình thông tin cổ động Sa Vĩ. Ảnh: N.N.Phú
Nhà thơ Trần Nhuận Minh (anh ruột nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa), một người con Hải Dương đã ra vùng mỏ - vùng than vàng đen Tổ quốc gắn bó nơi này hơn 40 năm, đã quen thuộc mọi ngõ ngách, địa chí ở cùng đất này. Thế mà ông bảo sao sáng nay chào cờ ở Sa Vĩ vẫn cứ thấy như mới lần đầu. Bất ngờ ông hỏi tôi: Cậu là người hay viết về biển, thế có biết lực lượng hải quân được thành lập lúc nào không? Tôi trả lời em có tìm hiểu và biết quân chủng hải quân lấy ngày 7/5/1955 thành lập Cục “phòng thủ bờ biển” thuộc Bộ Quốc phòng làm ngày thành lập hải quân. Thật bất ngờ khi nhà thơ Trần Nhuận Minh cho tôi biết một thông tin mới mẻ mà ông cam đoan là rất chính xác. Ông tâm tình với cái giọng thong thả, điềm tĩnh khúc chiết như một tham luận cô đọng trước giờ hội thảo “Chính xác hải quân (lính thủy) Việt Nam được thành lập từ năm 1288 mà vị “tư lệnh” đầu tiên là Phó Đô tướng Trần Khánh Dư, với trận thủy chiến ở Vân Đồn tiêu diệt đội thuyền lương Trương Văn Hổ của quân Nguyên. Trần Khánh Dư được giao nhiệm vụ bảo vệ vùng đất ven biển và biển đảo chiến lược hiểm yếu vùng Đông Bắc có mũi Sa Vĩ và Trà Cổ này. Ông tổ chức một đội quân tinh nhuệ đặt tên là “Binh hải quân” đóng tại Vân Đồn - Quảng Ninh. Đội quân thủy chiến có 30 đô, biên chế mỗi đô 80 người lính, toàn quân có 30 chiếc thuyền, mỗi thuyền có 30 lính chèo thuyền. Như vậy ta có thể tính ra lực lượng hải quân lúc mới thành lập khoảng 3.300 người phù hợp với dân số của nước Việt bấy giờ. 
 
Chúng tôi đã đến thăm đồn biên phòng Trà Cổ. Các đồng chí chỉ huy đồn cho biết ở đây có mấy dân tộc anh em cùng chung sống: Kinh, Dao, Tày, Sắn Dìu, có cả đồng bào Thiên Chúa  Giáo, có đường biên giới tiếp giáp với Trung Quốc. Với địa hình phức tạp như thế, đồn cử 2 đồng chí trung tá biệt phái xuống tham gia phó bí thư Đảng ủy xã, để trực tiếp nắm tình hình an ninh biên giới. Đội công tác Tràng Vĩ thuộc đồn biên phòng Trà Cổ đóng quân ngay ở sát mũi Sa Vĩ. Các anh hào hứng kể cho tôi nghe về câu chuyện khi xây dựng cột mốc 1378 khá đặc biệt này. Cột mốc chủ quyền được đặt ở đỉnh cực đông bắc trên mũi Sa Vĩ, dấu mốc cuối cùng của tuyến biên giới Việt - Trung tính từ cột mốc số 0 trên đỉnh Khoang La San ở Ngã ba biên giới ba nước Việt - Trung - Lào. Theo thông lệ quốc tế, khi biên giới đi qua sông thì phải cắm cột mốc kép đồng thời cả hai nước. Mốc 1378 do Việt Nam xây dựng trên hòn Dâu Gót có nền đất yếu, thủy triều lên là toàn bộ hòn chìm xuống mặt nước. Bởi thế, khi xây mốc các anh phải đào sâu xuống tận tầng đá gốc rồi xây bệ mốc cao hơn chục mét. Sau đó mới xây mốc trên bệ trụ để khi thủy triều lên mốc vẫn nổi cao trên mặt nước. Như thế cũng đủ thấy sự gian nan, vất vả của những người lính nơi đây khi đặt dấu mốc đầu tiên bảo vệ chủ quyền đất nước. Tôi nhớ hôm sau lễ chào cờ ở Sa Vĩ, chị Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Cà Mau, người đã từng ra Trường Sa và rất say mê đề tài biển đảo đã thay bộ quần áo hàng ngày bằng bộ bà ba quàng khăn rằn và đứng khóc tức tưởi trước khi chụp ảnh ở bức phù điêu màu xanh da trời có khắc chạm câu thơ của Tố Hữu: “Từ Trà Cổ rừng dương đến Cà Mau rừng đước”. Chị ôm choàng bức phù điêu có tạc hình tàu lá dừa và thổn thức: “Tôi đã gặp đất Mũi thân thương đây rồi”, chỉ thiếu chiếc thuyền ba lá, vài dòng kênh rạch thì đây là một hiện thân máu thịt của Cà Mau. Nhà thơ Bùi Hữu Thiêm là người am hiểu vùng đất này cho tôi biết: Tên gọi Trà Cổ là tên ghép của hai làng Trà Phương và Cổ Trai (nay thuộc huyện Tiến Thủy - Hải Phòng) là đất phát tích nhà Mạc vào đầu thế kỷ 16. Người Trà Cổ có câu: “Người Trà Cổ - Tổ Đồ Sơn”. Thấy tôi ngạc nhiên, ông Thiềm kể: ngư dân Sa Vĩ hiện là hậu duệ của những người đi biển đến từ bán đảo Đồ Sơn - Hải Phòng xưa. Đại để từ cách đây khoảng 6 thế kỷ, một nhóm ngư dân Đồ Sơn đi đánh cá gặp bão, ghé vào đây. Lúc ấy Trà Cổ còn là đầm bãi, đầm lầy, chưa có người sinh sống. Mười hai gia đình ngư dân Đồ Sơn đã phân vân, bàn luận không biết nên về hay ở lại. Cuối cùng 6 gia đình quay về bởi bất lực trước thực tại như chính những câu ca vẫn lan truyền đến nay “Ở đây ăn bổng lộc gì/ Lộc sim thì chát lộc si thì già”. 6 gia đình ở lại thì lạc quan hơn “Ở đây vui thú non tiên/ Tháng ngày tôm cá lấy tiền nuôi nhau”. Và họ ở lại khai hoang, lập làng dựng nên Trà Cổ. Người dân Sa Vĩ có một nghề truyền thống đó là cào ngao (nghêu) trên vùng biển giáp biên giới Trung Quốc với cái tên rất ngộ là “nạo vạn ”. Thường họ đi bè máy (được kết bằng tre) ra ngoài biển. Chờ nước ròng xuống biển với cái cào, đầu cán có dây choàng ôm thân người rồi đi giật lùi, phát hiện có ngao thì dừng lại vớt lên. Hiểu nôm na “vạn” là dân vạn đò, “nạo” là nạo vét. Ngoài cào ngao những người đi bắt giun đất, sá sùng cũng được gọi là “nạo vạn”… 
 
Ở Trà Cổ có một cột mốc chủ quyền văn hóa đặc biệt đó là đình Trà Cổ. Ngôi đình Trà Cổ mặc dù được xây dựng tại vùng biên giới giáp Trung Quốc nhưng hoàn toàn mang phong cách kiến trúc Việt Nam. Mang đậm chất văn hóa người Việt, không hề lai căng pha tạp đồng hóa với kiến trúc Trung Hoa. Điều này khẳng định rằng cha ông ta ngày xưa đã rất coi trọng bản sắc văn hóa dân tộc. Đề tài trang trí ở đây rất phong phú và đa dạng như long, ly, quy, phượng, lưỡng long chầu nguyệt, long hóa mây, cá chép hóa long, long mã, hổ phù, hoa văn dạng hoa lá, mây xoắn… Tất cả được thể hiện rất công phu, tài nghệ mang đậm nét văn hóa cổ truyền của người Việt Nam. Đình có niên đại từ thế kỷ 16 đến nay vẫn vẹn  nguyên thờ 6 vị tiền công người Đồ Sơn (Hải Phòng) và thờ  Quận He Nguyễn Hữu Cầu - một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa thời Lê - Trịnh cũng quê Đồ Sơn. Và một điều làm tôi ngạc nhiên nơi đây chính là cảm hứng để nhạc sĩ Nguyễn Cường - một người quen gắn bó với nhịp điệu Tây Nguyên hoang dã, với nhịp “Rook” hiện đại khi ông về Sa Vĩ (Trà Cổ) đã viết ca khúc “Mái đình làng biển” với những câu hát lúc nào cất lên ta lại thấy rưng rưng dòng máu cội nguồn chảy râm ran trong từng tế bào, huyết mạch: “Thi gan cùng tuế nguyệt/ bao lâu bao lâu rồi/ Mái đình xưa làng biển/  Thành thênh thang góc trời”
 
Có một chiều Sa Vĩ êm đềm, bình an lặng lẽ khi tôi bắt gặp bốn cụ bà râu tóc bạc phơ, khuôn mặt phúc hậu, răng đen nhưng nhức như bốn bà tiên trải chiếu đánh bài tam cúc cạnh ngôi đền Trà Cổ mấy trăm tuổi này. Tôi như lạc vào một không gian làng Việt thuần nông xa xưa “Những buổi ngày xưa vọng nói về” (Nguyễn Đình Thi). Các cụ bà với những con tượng, con mã, con tốt… như sống lại với ký ức một thời. Và Sa Vĩ giữ được vẻ đẹp trường tồn như thế thì không bao giờ có thế lực nào khuất phục được. Đó là điểm tựa của lòng dân, của trầm tích văn hóa lịch sử ngày ngày đắp bồi cát vàng truyền thống lên vùng đất này. Tuy là gò cá, đuôi cát nhưng là đầu long cho dải đất thiêng Tổ quốc…
 
Ghi chép: NGUYỄN NGỌC PHÚ