5 năm khoa học công nghệ đồng hành cùng sự phát triển

09:10, 23/10/2017

5 năm qua, khoa học công nghệ đã trở thành động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh không ngừng phát triển. Nhiều thành tựu khoa học công nghệ ứng dụng vào thực tiễn làm thay đổi mọi mặt đời sống.

Ngày 1/11/2012, Ban Chấp hành TW Ðảng ban hành Nghị quyết số 20/NQ-TW về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. 5 năm qua, khoa học công nghệ (KHCN) đã trở thành động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh không ngừng phát triển. Nhiều thành tựu khoa học công nghệ ứng dụng vào thực tiễn làm thay đổi mọi mặt đời sống.
 
Ứng dụng công nghệ thủy canh cho phép trồng rau không cần đất. (Ảnh chụp tại Cầu Đất Farm). Ảnh: Q.U
Ứng dụng công nghệ thủy canh cho phép trồng rau không cần đất. (Ảnh chụp tại Cầu Đất Farm). Ảnh: Q.U

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 20 của TW Đảng và Kế hoạch 65 của Tỉnh ủy Lâm Đồng về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, toàn tỉnh đã đẩy nhanh việc nghiên cứu, ứng dụng kết quả KHCN phục vụ phát triển kinh tế, xã hội. Nhiều đề tài, dự án KHCN được triển khai tại địa bàn nông thôn, vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh, làm thay đổi nhận thức trong sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế; trình độ sản xuất, kiến thức khoa học kỹ thuật của người dân và doanh nghiệp đã được nâng lên rõ nét. Mối quan hệ gắn kết giữa nhà khoa học, người dân, doanh nghiệp không ngừng được thắt chặt, bước đầu đã hình thành thị trường công nghệ. Các kết quả nghiên cứu ngày càng đi vào thực tiễn, ứng dụng rộng rãi trong sản xuất làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Đặc biệt, việc ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao đạt được những bước tiến mạnh mẽ, làm thay đổi đời sống nông dân, nông nghiệp, nông thôn.
 
Trong 5 năm, toàn tỉnh đã thực hiện 56 nhiệm vụ KHCN cấp tỉnh, 144 nhiệm vụ KHCN cấp cơ sở, tập trung trên các lĩnh vực: nông - lâm nghiệp, xã hội nhân văn, môi trường.
 
Hỗ trợ ứng dụng tiến bộ KHCN và đổi mới công nghệ cho 55 đơn vị, doanh nghiệp; hỗ trợ về tiêu chuẩn chất lượng cho 70 doanh nghiệp; hỗ trợ xây dựng, phát triển tài sản trí tuệ và thương hiệu cho các địa phương gắn với các sản phẩm là đặc sản nông nghiệp, làng nghề truyền thống; xây dựng 145 điểm thông tin KHCN.
 
Từ đó thành tựu KHCN đã thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trên mọi mặt đời sống: nông nghiệp, môi trường, điều tra cơ bản, xã hội nhân văn, công nghiệp, công nghệ thông tin. Cụ thể, những thành tựu nổi bật là: ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất rau an toàn theo quy trình VietGAP; xây dựng quy trình trồng cà chua theo hướng nông nghiệp công nghệ cao; xây dựng mô hình cà phê Arabica cho năng suất trên 3 tấn/ha; nghiên cứu phòng ngừa bệnh thối rễ vàng lá trên cây cà phê; lai tạo các giống bò thịt cao sản với bò vàng địa phương phù hợp với điều kiện chăn nuôi; nghiên cứu quy trình sinh sản nhân tạo giống cá hồi vân; nghiên cứu các giải pháp phòng trị bệnh tổng hợp cho cá tằm, cá hồi nuôi tại Lâm Đồng; xây dựng quy trình nuôi cấy nấm đông trùng hạ thảo, sản xuất nấm dược liệu quý (linh chi), nấm ăn cao cấp. Các mô hình trồng dâu nuôi tằm, trồng nấm ăn, nấm dược liệu, cà phê, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, gia cầm được chuyển giao cho nông dân các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, làm thay đổi đời sống. Nghiên cứu về biện pháp kỹ thuật trồng cây hoàng liên ô rô, bá bệnh và đẳng sâm dưới tán rừng thông 3 lá; nghiên cứu về bạch tùng và thông 5 lá bổ sung tập đoàn cây trồng rừng kinh tế tại Lâm Đồng. 
 
Về công nghiệp, nghiên cứu công nghệ và thiết bị sấy Atiso phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đã chuyển giao mô hình máy sấy bông Atiso xắt lát, máy sấy thân rễ năng suất 200 kg/mẻ cho Công ty Dược Lâm Đồng đưa vào sử dụng. Nghiên cứu về công nghệ rút ngắn thời gian sấy gỗ và tiết kiệm năng lượng trong sấy gỗ, sản phẩm được ứng dụng thí điểm tại Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Di Linh. Đã tiến hành nghiên cứu chất lượng nguồn nước sinh hoạt tại những nơi tập trung dân cư ở Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên, xây dựng mô hình xử lý ô nhiễm cho các hộ dân; đánh giá các nguồn cấp nước sinh hoạt cho thành phố Đà Lạt tại hồ chứa lớn: Tuyền Lâm, Đankia - Suối Vàng, Chiến Thắng, đề xuất các giải pháp bảo vệ nguồn nước. Đồng thời nghiên cứu tai biến địa chất ở vùng có nguy cơ nứt đất, trượt lở, sụp lún, lũ quét, đưa ra các biện pháp ngăn ngừa khắc phục, xây dựng bản đồ địa chất, địa mạo; xây dựng bản đồ ngập lụt và hệ thống tháp cảnh báo lũ 3 huyện phía Nam; nghiên cứu trữ lượng và chất lượng các nguồn nước khoáng cacbonic trên địa bàn tỉnh. Nghiên cứu phát huy sản phẩm du lịch đặc thù, các giải pháp phát triển sản phẩm du lịch thể thao nhằm thu hút du khách. Nghiên cứu sưu tầm, bảo tồn và phát huy hoa văn trang trí của các dân tộc Mạ, K’Ho, Churu góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa; nghiên cứu về đạo Tin lành trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số; nghiên cứu vai trò của các chức sắc tôn giáo trong việc củng cố và tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc...
 
Không ngừng phát triển thị trường KHCN, Sở KH - CN đã hỗ trợ ứng dụng các kỹ thuật tiến bộ, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất chất lượng, xây dựng phát triển thương hiệu tăng sức cạnh tranh, chủ động hội nhập. Hướng dẫn 64 doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo TCVN, trong đó có 42 doanh nghiệp đã được cấp giấy chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 1400, HACCP, GMO, GAP, ISO 17025... Hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ và thương hiệu, đã hỗ trợ cho các địa phương xây dựng các nhãn hiệu sở hữu cộng đồng như nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, chỉ dẫn địa lý gắn với các sản phẩm là đặc sản nông nghiệp, làng nghề truyền thống, như: Cá nước lạnh Đà Lạt, Rượu Cát Quế Bảo Lâm, Diệp hạ châu Cát Tiên, Dâu tây Đà Lạt; đăng ký nhãn hiệu chứng nhận “Hoa Đà Lạt”, “Trà B’Lao” ra nước ngoài.
 
KHCN đã thực sự đi vào khai thác được tiềm năng thế mạnh tại địa phương, qua đó năng suất và sản lượng cây trồng tăng bình quân hàng năm 8 - 10%, xuất hiện nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao, tốc độ tăng trưởng của ngành nông - lâm - thủy sản tăng trung bình 8,4%/năm; giá trị sản xuất trên diện tích thu hoạch đến nay đạt 150 triệu đồng/ha. KHCN thúc đẩy nền nông nghiệp Lâm Đồng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, trình độ canh tác phát triển vượt bậc, chất lượng sản phẩm được nâng cao; tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp công nghệ cao đạt 30% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp. Hoạt động KHCN đã thiết thực phục vụ các chương trình phát triển kinh tế - xã hội quan trọng như: xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững, tái cơ cấu ngành nông nghiệp, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, nâng cao năng lực quản lý nhà nước, khai thác tiềm năng lợi thế của địa phương, phát triển sản xuất và các sản phẩm đặc thù, cung ứng và đa dạng nguồn giống tại chỗ, nâng cao năng suất, chất lượng trong sản xuất... 
 
Tuy nhiên, theo đánh giá của Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trần Ngọc Liêm, tỉnh chưa có nhiều đề tài khoa học lớn, chưa có các nghiên cứu toàn diện để giải quyết những vấn đề quan trọng và theo chuỗi giá trị sản phẩm, thiếu các nhiệm vụ KHCN có tính đột phá, tính liên vùng để có thể triển khai ở quy mô lớn. Nguồn vốn để duy trì và nhân rộng các mô hình từ kết quả nghiên cứu còn hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả và sức lan tỏa của các mô hình sau khi kết thúc đề tài, dự án. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ chế biến, bảo quản sản phẩm nông - lâm nghiệp sau thu hoạch chưa đáp ứng yêu cầu phát triển thị trường nội địa và xuất khẩu. Đó cũng là những vấn đề KH-CN Lâm Đồng đang đặt ra trong thời gian tới. 
 
QUỲNH UYỂN