Trong cuộc sinh tồn, con người luôn không ngừng lao động sáng tạo để thích ứng, hòa hợp với thiên nhiên. Sống giữa đại ngàn, các dân tộc Mạ, K'Ho, Churu sinh từ lâu đời ở Lâm Ðồng đã tác tạo ra nhiều vật dụng sinh hoạt làm bằng nguyên liệu tranh, tre, nứa, lá phục vụ đời sống vật chất, tinh thần của mình.
Không gian trưng bày độc đáo thu hút khách tham quan. Ảnh: T.An |
Gần 150 dụng cụ sinh hoạt đời thường được chế tác từ các chất liệu tre, nứa, lá, cói, gỗ được Bảo tàng Lâm Đồng giới thiệu tại trưng bày chuyên đề “Tranh tre nứa lá” đã tạo nên một không gian sống động, đa sắc màu, phản ánh đời sống lao động sản xuất của các dân tộc thiểu số bản địa đang sinh sống ở Nam Tây Nguyên. Đó là những vật dụng thân thuộc, đơn sơ, giản dị của đồng bào gắn với tính năng sử dụng như: bầu khô đựng cháo, nước, thức ăn, hạt giống; các loại gùi, nơm, giỏ, đó, chúm dùng để bắt cá, chụp bắt mối; bu nhốt gà, chó; thúng, rổ, rá dùng để đựng; rần, sàng, mẹt, cối, chày dùng để giã gạo; ống thụt lò rèn; chiếu cói, các loại dao phát, dao trỉa hạt, dao săn thú có cán bằng lồ ô, tre, nứa... Mỗi vật dụng được tạo tác tỉ mỉ, khéo léo, không theo một khuôn mẫu nào, đạt đến độ tinh xảo, không chỉ mang giá trị sử dụng, độ bền chắc, mà còn có giá trị thẩm mỹ cao. Các vật dụng sinh hoạt cũng phản ánh đầy đủ hình thái kinh tế săn bắt, hái lượm của đồng bào. Đồng bào không quên mỗi khi đi rừng thường đeo trên vai một chiếc gùi và một chiếc xà gạc, chụp mối, ra suối là mang theo chúm, đó; để khi về lại có thức ăn cho gia đình từ nắm rau rừng, con rúi, con cá, ổ mối. Nhìn kỹ vào từng đồ vật mới hiểu hết giá trị mà chủ nhân tạo tác nên các đồ vật đã gửi gắm vào đó. Tất cả do bàn tay con người tạo tác nên, qua thời gian cũng chính bàn tay con người sử dụng mà trở nên nhẵn bóng. Có vật dụng đã có tuổi đời đến trăm năm bằng cả đời người đã chuyển màu mun đen in dấu thời gian.
Dụng cụ bắt cá. Ảnh: T.An |
Ngắm các vật dụng, sự công phu, tỉ mỉ, mỗi cái được đan một kiểu, một dáng vẻ, không chán mắt. Xem cách họ cần mẫn chuốt từng sợi nan, sợi mây nhẵn bóng, nắn nót tạo nên từng mắt nan quện vào nhau đều đặn, mới thấy họ không chỉ khéo tay, hay làm, cần cù lao động mà còn thể hiện cả óc sáng tạo. Mỗi vật dụng như một tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo từ đường nét tạo dáng, đến phối màu, hoa văn, kiểu đan, không cái nào giống cái nào, mà người tạo tác nên nó đều để lại dấu ấn cá nhân độc đáo riêng. Bộ pàp (đơm, đó dùng bắt các loại cá to, cá nhỏ), xa drup (đồ dùng bắt mối) được đan 2 lớp bằng sợi nan nhỏ như tơ), gùi k’Soh (để lúa), gùi yoh xala (gùi hoa dùng để đi thông gia, đi cưới hỏi, múa hát)... Miệt mài, tỉ mỉ ở từng “mắt”, từng nan tre, kỹ lưỡng đến từng chi tiết, rít chặt, nén chặt, đều đẹp đến độ tinh xảo. Việc đan lát không theo một khuôn mẫu cố định nào, đan theo cảm hứng, vừa đan vừa sáng tạo theo ý thích, theo cảm nhận cái đẹp riêng của người đan. Nghệ nhân Ya Hiêng (buôn Pré, Phú Hội, Đức Trọng) kể: Tây Nguyên ngày xưa mùa mưa dầm dề 7 tháng/năm; những ngày mưa kéo dài không ai ra khỏi nhà, quây quần bên bếp lửa, họ tự làm những vật dụng cần thiết cho gia đình, cho chính mình. Người đan thường dành hết tâm sức, vừa đan vừa ngắm nghía cho đồ vật mình làm ra đạt đến độ sắc sảo nhất, đẹp nhất có thể, không định thời gian bao lâu phải đan xong một vật dụng, có những vật dụng được làm trong vài tháng mới hoàn thành.