Với địa bàn cư trú trải rộng trên 3/4 diện tích đất liền, cộng đồng các dân tộc thiểu số chiếm 1/7 dân số quốc gia...
Với địa bàn cư trú trải rộng trên 3/4 diện tích đất liền, cộng đồng các dân tộc thiểu số (DTTS) chiếm 1/7 dân số quốc gia. Thành tựu trong việc đảm bảo quyền phát triển văn hóa các DTTS là những minh chứng cụ thể về thúc đẩy quyền tộc người nói riêng và quyền con người nói chung tại Việt Nam. Đảng, Nhà nước thực thi nhiều chiến lược quan trọng nhằm đẩy mạnh sự nghiệp bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa, coi di sản văn hóa các dân tộc anh em là bộ phận quan trọng trong nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng.
Trước nguy cơ phai nhạt bản sắc
Giữ lấy những gì còn lại của hệ thống di sản văn hóa truyền đời trong cộng đồng các DTTS là vấn đề luôn được quan tâm, nhưng hiệu quả mang lại không như mong đợi. Hệ thống tinh hoa tri thức bản địa của nhiều tộc người đang đứng trước thực trạng mai một, thất truyền.
|
Người phụ nữ Chu Ru đánh chiêng truyền thống. Ảnh: P.Nhân |
Điều 42 - Hiến pháp 2013, thể hiện: “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”. Quy định nói trên bảo đảm cho các DTTS có quyền tự do quyết định vị thế xuất thân, quyền sử dụng ngôn ngữ, là những vấn đề căn cốt để khẳng định sự bình đẳng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đồng thời, ngày 27/7/2011, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến năm 2020”. Trong đó, tập trung xây dựng bộ chỉ số phát triển văn hóa các DTTS; tổng kiểm kê di sản văn hóa tiêu biểu; hỗ trợ khẩn cấp, nâng cao năng lực tự bảo vệ nền văn hóa của các DTTS dưới 10.000 người, đặc biệt là 10 dân tộc: Brâu, Rơ Măm, Si La, Pu Péo, Bố Y, Ơ Đu, Lô Lô, Mảng, Cống, Cờ Lao. Đề án ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ người DTTS làm công tác văn hóa; hỗ trợ truyền dạy và phát huy các giá trị văn hóa, nghệ thuật truyền thống; phát huy hiệu quả sử dụng hệ thống các thiết chế văn hóa cơ sở, nâng mức hưởng thụ văn hóa cho đồng bào; đưa giáo dục văn hóa truyền thống các DTTS vào các trường học…
Sau khi đề án đi vào thực hiện, nhận thức về sự nghiệp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống các DTTS đã được nâng lên. Nhiều di sản, nghi lễ, lễ hội, dân ca, dân vũ, trang phục truyền thống, trò chơi dân gian các DTTS được khôi phục, trình diễn. Những ngày hội văn hóa vùng, miền, toàn quốc được tổ chức. Việc UNESCO công nhận Không gian Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là “Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại” trước đó, cùng với các dự án sưu tầm, phổ biến sử thi; âm nhạc dân gian, luật tục; khôi phục các thiết chế văn hóa cổ truyền…đã tạo cơ hội cho các DTTS nêu cao lòng tự hào, tự khẳng định các giá trị văn hóa của dân tộc mình. Những thành tựu rất đáng ghi nhận và đang được phát huy. Nhưng nhìn vào thực tế, phân tích thực trạng và nguy cơ tiếp tục phai nhạt bản sắc văn hóa truyền thống ngay tại các cộng đồng DTTS là chủ đề mà bài viết nhỏ này muốn được phản ánh.
Tây Bắc, Việt Bắc là không gian sinh tồn từ hàng trăm, hàng ngàn năm nay của các tộc người Tày, Nùng, Thái, Mường, Mông, Dao... Một không gian văn hóa rộng lớn và phong phú. Bởi lịch sử tạo cư phức tạp cùng tiến trình sáng tạo, không gian giao lưu và tiếp biến, văn hóa truyền thống miền biên viễn phía bắc như một bức tranh đa màu. Đặc biệt, vùng Tây Bắc bao gồm sáu tỉnh với 27 dân tộc sinh sống, là khu vực văn hóa đậm đà bản sắc. Sự phong phú thể hiện trên cả ba vùng cảnh quan: Ở vùng thung lũng lòng chảo thấp là nơi cư trú của các nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, Thái - Kađai; vùng giữa hay các sườn núi là nơi sinh sống của các tộc người nói tiếng Môn - Khmer và vùng rẻo cao thuộc về các tộc người theo ngữ hệ Mông - Dao, Tạng - Miến. Địa hình cảnh quan, lịch sử di trú của mỗi sắc tộc đã tạo nên truyền thống riêng biệt. Trong quá trình thích ứng với môi trường, sinh tồn và phát triển, nhiều giá trị độc đáo đã được hình thành. Tuy nhiên, bởi nhiều nguyên nhân, những bản sắc từ quá khứ và được dưỡng nuôi trong dòng chảy thiêng liêng của mỗi tộc người đang từng ngày hao hụt, mờ phai. Thực trạng đáng buồn đó đã được các cơ quan quản lý, nghiên cứu đánh giá, cảnh báo và truyền thông đã phản ánh nhiều.
Không chỉ Tây Bắc hay Việt Bắc, nhiều vùng trong nước bây giờ thật khó phân biệt đó là không gian sống của các dân tộc bản địa hay của người Kinh. Tôi đã từng dừng chân ở những bản Thái ở miền tây Nghệ An chênh vênh những ngôi nhà sàn bên sườn núi soi bóng xuống dòng sông Giăng thơ mộng; tôi đã từng bị hớp hồn bởi những bản Mường bên dòng sông Đà. Nhưng mươi năm trở lại thì bê tông và những khu công nghiệp đã lấn át những hình ảnh ký ức. Buôn Mơ Nông đẹp như mơ bởi lối kiến trúc đại ngàn độc đáo nay chỉ còn là những dãy nhà “đồng phục kiểu mới” nối liền nhau. Tôi đã từng lạc vào những khu “rừng ma” Ba Na đầy huyền bí với nhà mồ, tượng gỗ, nay thì đã hoàn toàn bị xi-măng hóa. Những ngôi nhà dài Ê Đê soi mình bên bến nước các dòng sông K’rông Ana, K’rông Ano cũng gần như vắng bóng. Cồng chiêng mất dần không gian diễn xướng tự nhiên mà chủ yếu phô diễn “sân khấu hóa”. Các hình thức nghệ thuật diễn xướng, dân ca, dân vũ được cố gắng duy trì qua phong trào văn nghệ nhưng lại thiếu linh hồn. Những yếu tố tích cực của hệ thống luật tục không được phát huy. Các nghề thủ công như rèn, đan lát, dệt, ủ rượu cần cũng tồn tại lay lắt trước khi biến mất…
Trong khi đó, số lượng nghệ nhân am hiểu văn hóa cổ ngày một giảm sút. Những yếu tố bên ngoài tác động vào khiến nhận thức của một bộ phận đồng bào, nhất là lớp trẻ thay đổi theo hướng tiêu cực. Những năm tháng mà bản sắc vùng DTTS còn nhiều hoang dã, đa sắc, huyền bí và hấp dẫn đã lùi về ký ức. Cái thời mà Tây Bắc, Việt Bắc, Trường Sơn - Tây Nguyên như những nơi chốn mà các nhà dân tộc học coi là vùng đất hứa của những khám phá đã xa. Đâu là nguyên nhân? Đời sống hiện đại với những sự xâm nhập khó cưỡng, sự biến đổi không gian sinh tồn, phương thức mưu sinh và tác động của các tín ngưỡng du nhập là những lý do quan trọng nhất dẫn đến sự phá vỡ một không gian văn hóa vốn hình thành trong môi trường thiết chế xã hội cổ truyền. Trong đó, có tác động sâu sắc của những dịch chuyển kinh tế - xã hội.
Nhìn sâu vào Tây Nguyên, nơi có hơn 1,6 triệu đồng bào thuộc 47 dân tộc thiểu số sinh sống, hình ảnh nhạt nhòa văn hóa cổ hiện ra rõ nét. Sự mất dần căn cốt núi rừng thể hiện từ văn hóa vật thể đến phi vật thể. Những buôn làng vùng sâu vốn là hình mẫu về bảo tồn nhưng chỉ mấy năm quay lại, những ngôi nhà dài đẹp như sử thi đã biến mất hẳn; tìm người hát dân ca Yalyău, Kơ Ứt, Ay Ray, Lả Lông chỉ nhận được những cái lắc đầu. Những người già từng ngồi bên mép cầu thang thổi khèn bầu nay đã về rừng Yàng và mang theo biết bao tri thức tộc người. Người trẻ thích mặc áo phông, quần bò, cưỡi xe máy đi uống bia và hát karaoke hơn là ngồi bên bếp lửa nhà sàn gõ nhịp cồng chiêng…
Thử dẫn vài góc nhìn để lý giải? Trước hết, có thể nói, địa sinh thái nông nghiệp của đồng bào Tây Nguyên từng là cây lúa. Lúa và cuộc canh nông ruộng rẫy chi phối gần như toàn bộ lối sống, kiểu sống, phép ứng xử với siêu nhiên, thiên nhiên và cộng đồng. Lúa không chỉ mang đến cái ăn mà còn là ý niệm về các thần linh, ý niệm ấy trở thành căn tính. Các nhóm người thiểu số lấy đó làm trung tâm để giải thích các hiện tượng và tìm cách ứng xử phù hợp. Theo họ, tất cả đều do đấng thần linh sắp đặt, nên người trồng lúa ở Tây Nguyên có chung một sự biết ơn: ơn Yàng! Trước Yàng, đồng bào vun bồi tâm tính, hiểu và yêu thương nguồn cội, núi rừng, cộng đồng. Khi trồng lúa, ứng với quá trình sinh trưởng loài cây nuôi sự sống là một chuỗi nghi lễ xuyên suốt: chuỗi nghi lễ nông nghiệp. Đó vừa là những dịp tạ ơn và cậy nương thần linh, vừa là quá trình ôn lại tri thức dân gian và thực hành văn hóa bản địa. Thông qua việc tổ chức các nghi lễ, người già truyền cho cháu con phương cách ứng xử; đó cũng là không gian trình diễn dân ca, dân vũ, nhạc cụ, bài trí cây nêu, sửa sang nhà rông, thưởng thức ẩm thực. Nay cây lúa ở Tây Nguyên chỉ còn thưa thớt, cà phê và những cây công nghiệp khác lên ngôi cùng với sự biến mất dần các chuỗi nghi lễ. Đó là lý do làm cho cơ hội thực hành văn hóa suy giảm; môi trường diễn xướng, truyền dạy các tri thức cổ truyền đi đến tiêu vong.
Bên cạnh đó, làng (thiết chế xã hội cổ truyền) tan rã và rừng (không gian sinh tồn) bị phá vỡ, tác động không nhỏ đến sự mai một vốn văn hóa cổ. Làng ở miền thượng du là kết cấu “làng rừng” - một không gian thực hành văn hóa của các tộc người, bao hàm: một cộng đồng cư trú, một cộng đồng sở hữu và lợi ích, một cộng đồng tín ngưỡng, một cộng đồng văn hóa. Rừng với họ không chỉ là tài nguyên, hệ sinh thái mà chính là cội nguồn của đời sống tâm linh. Trong thẳm sâu tâm hồn đồng bào, có một tình cảm ruột thịt, một lòng kính trọng thiêng liêng với rừng. Người miền núi sống theo đạo đức của rừng, vươn tới sự hoàn thiện, hiền minh như rừng. Rừng là không gian sinh tồn, không gian xã hội. Mất rừng thì con người và cộng đồng mất đi cái nền rộng lớn, bền chặt, thẳm sâu nhất của mình, trở nên tha hóa, mất gốc, mất cội nguồn. Nếu hiểu văn hóa của các tộc người thiểu số cư trú miền núi cao là văn hóa rừng thì toàn bộ đời sống văn hóa đó, đều biểu hiện mối quan hệ khăng khít, máu thịt của con người, cộng đồng với rừng. Không còn rừng, tất yếu văn hóa rừng sẽ dẫn đến mai một. Mất rừng và làng, hệ thống giá trị đó không còn biết bấu víu vào đâu. Sợi dây thắt chặt một cộng đồng hình như đang lơi lỏng, tuột dần theo nhịp sống hiện đại.
“Cái gì cũng có thể xây được, sản xuất được, sáng tác được, nhưng di sản thì không thể tạo ra được”, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phát biểu như vậy tại Hội nghị “Bảo vệ và phát huy di sản văn hóa Việt Nam vì sự phát triển bền vững”, do Bộ VH-TT và DL tổ chức vào tháng 7 năm 2018. Đó vừa là một thông điệp cảnh báo về sự hao hụt vốn quý đang diễn ra từng ngày, vừa giao trách nhiệm cho các cấp, các ngành hữu quan trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy hệ thống di sản văn hóa quốc gia, trong đó có những giá trị độc đáo, hấp dẫn của cộng đồng các DTTS Việt Nam…
(CÒN NỮA)
UÔNG THÁI BIỂU