"Di sản không phải là di sản chết mà phải đóng góp vào phát triển bền vững. Chúng ta có nhiệm vụ làm di sản luôn hồi sinh và tồn tại có ích. Giải quyết hài hòa lợi ích giữa bảo tồn và phát triển, giữ gìn di sản và phát triển du lịch…"...
[links()]
Du lịch là cứu cánh?
“Di sản không phải là di sản chết mà phải đóng góp vào phát triển bền vững. Chúng ta có nhiệm vụ làm di sản luôn hồi sinh và tồn tại có ích. Giải quyết hài hòa lợi ích giữa bảo tồn và phát triển, giữ gìn di sản và phát triển du lịch…”. Ðó là lời phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị “Bảo vệ và phát huy di sản văn hóa Việt Nam vì sự phát triển bền vững”, do Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch tổ chức vào tháng 7 năm 2018…
|
Lưu truyền bản sắc văn hóa cho thế hệ mai sau. Ảnh: Phan Nhân |
Các nghiên cứu do UNESCO tiến hành mấy chục năm qua cũng khẳng định, phát triển bền vững là sự kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, bảo vệ môi trường và phát triển văn hóa. Từ đó, bảo tồn văn hóa cũng phải đặt ra mục tiêu gắn kết giữa hai nhiệm vụ phát triển kinh tế song song phát triển văn hóa, làm cho văn hóa tham gia tích cực vào việc thực hiện mục tiêu cơ bản của phát triển. Đó là những định hướng đúng đắn, chúng ta dựa vào tinh thần đó để xem xét lại những việc đã và đang thực hiện.
Trước hết, về vấn đề bảo tồn những giá trị đặc sắc trong kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của cộng đồng các dân tộc thiểu số (DTTS). Theo đánh giá của các chuyên gia, xét trên bình diện sáng tạo và thụ hưởng văn hóa tộc người, hiện nay vốn văn hóa truyền thống của các DTTS đã bị hao hụt nhiều. Sự sáng tạo - thụ hưởng - trao truyền các giá trị văn hóa tộc người dựa trên ba điểm tựa căn bản: tự nhiên, cộng đồng thôn làng, ngưỡng hành vi. Đáng tiếc, cả ba điểm tựa đó (như phân tích ở bài trước), cơ bản đã bị phá vỡ. Vì thế, đồng bào không có điều kiện thụ hưởng văn hóa theo cách của họ. Để cứu vãn khẩn cấp, cần phải đưa ra nhiều nhóm giải pháp, trên tinh thần coi văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Cần có kế hoạch khẩn trương, dứt điểm trong việc đầu tư kinh phí, nhân lực có chuyên môn để khảo sát, thống kê, phân loại, nghiên cứu đồng bộ lịch sử, tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán và hệ thống các di sản khác của các dân tộc anh em. Nên nhận thức rằng, vốn văn hóa là tất cả những gì đồng bào đã và đang có, như nghề truyền thống, cây trồng bản địa, những tri thức tộc người, sinh kế, kinh nghiệm, chứ không chỉ kiến trúc, nhạc cụ hay trang phục như lâu nay các dự án thường chỉ nhắm đến. Các thành tố văn hóa của mọi dân tộc đều mang giá trị riêng, xứng đáng để bảo tồn, trên tinh thần chọn lọc. Các chuyên gia khuyến cáo, cần tôn trọng tín ngưỡng truyền thống của cộng đồng các dân tộc, không coi đó là mê tín dị đoan. Những hành động cấm đoán thiếu khoa học sẽ xâm hại nghiêm trọng, gây đổ vỡ, đứt đoạn văn hóa.
|
Cảnh sàng gạo thường thấy trong sinh hoạt của bà con Cơ Ho. Ảnh: P.Nhân |
Nguyên tắc đặt ra là bảo tồn nguyên gốc, nguyên bản ngay tại môi trường sống của di sản, gắn với cộng đồng, tín ngưỡng và có tính trao truyền. Nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của cộng đồng, lấy cộng đồng làm chủ thể trong việc bảo tồn. Phải nhấn mạnh như vậy bởi nhiều nơi chúng ta đã thiếu khoa học trong việc bảo tồn. Đầu tư, khôi phục, khai thác không đúng cách đã làm cho di sản biến dạng, méo mó, xa rời những giá trị căn cốt, cội rễ. Ví như, các dự án nặng tính hình thức, không xuất phát từ nhu cầu cộng đồng, việc các địa phương xây dựng nhà rông văn hóa và trang bị những bộ âm thanh điện tử “vô hồn” là một ví dụ. Ví như, làng truyền thống Cơ Tu ở Tây Giang (Quảng Nam), một mô hình bảo tồn, tôi đã đến đó và cảm nhận giống một ngôi làng “mồ côi” vì thiếu hơi ấm, thiếu bếp lửa, thiếu nếp sinh hoạt của đồng bào. Nhiều buôn làng được ngành văn hóa sắm các bộ cồng chiêng để “treo lên vách”, những bộ chiêng không có linh hồn. Nhiều nơi dựng nhà gươl trên núi lại mua tranh tre từ dưới đồng bằng…
Rất nhiều những “tuần văn hóa”, “ngày hội văn hóa” được tổ chức, và sau đó chẳng để lại ấn tượng bao nhiêu; bởi cái gốc văn hóa bị biến dạng, nặng tính biểu diễn, xa rời vốn cổ nên thiếu chiều sâu giá trị. Các phong tục, tập quán và lễ hội, do sự hiểu biết và năng lực của cán bộ chuyên trách hạn chế, lại ít có sự phối hợp chặt chẽ giữa các nghệ nhân, các nhà sưu tầm, nghiên cứu và các nhà quản lý nên có lúc tổ chức còn nửa cổ nửa kim. Người viết đã tham dự một số lễ hội phục dựng mà ngán ngẩm: thông điệp gửi thần linh được soạn thảo như một văn bản chính trị; các vũ công nhảy múa trong âm nhạc điện tử được phát từ đĩa thu âm sẵn, nghệ nhân dân gian mặc khố, đi dày đinh, ọc ạch đọc lời khấn trước micro…). Ở Tây Bắc, người ta đã cho “ông Trời” cầm cành cây vẩy nước tượng trưng cho cơn mưa trong “Lễ cầu mưa của người Thái”; các nghi lễ “xên bản”, “xên mường” cũng xa rời bản thể thiêng liêng của cộng đồng mà chỉ là những cuộc phô diễn khô cứng. Chợ tình thương mại hóa để thỏa mãn sự tò mò của du khách đã làm ảnh hưởng đến nét đẹp, giá trị nhân văn vốn có. Nghi lễ cúng bến nước của người Ê Đê chỉ còn được “diễn” thưa thớt trong các lễ hội không phải do người dân tự thân tổ chức…
* * *
Việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa gắn với phát triển du lịch là một hướng đi đúng, bền vững. Tuy nhiên, ít nơi làm tốt mà nhiều nơi lạm dụng, khai thác lệch lạc. Nhiều nhà nghiên cứu cảnh báo, không để du lịch “xâm lăng” vô lối vào văn hóa, dẫn đến sự biến dạng không gian đời sống đồng bào. Một nghệ sĩ người dân tộc Cơ Ho nói với tôi rằng, hầu hết nội dung các khu, điểm du lịch văn hóa bản địa đều do “cò” chi phối; các “cò” dẫn dắt, đặt hàng phải làm gì để thỏa mãn thị hiếu tức thời của khách. Vẫn biết là văn hóa và du lịch đang dựa vào nhau mà sống. Vấn đề đặt ra là chúng ta đang khai thác thứ văn hóa gì cho du lịch và du lịch kiểu đó có đúng với bản chất du lịch văn hóa hay không? Các địa phương trong nước, mức độ có thể khác nhau nhưng đều giống ở tổ chức, quản lý và khai thác du lịch văn hóa bản địa theo kiểu ăn xổi ở thì, gây ra những tác hại, làm phai nhạt, chết dần các giá trị văn hóa đích thực. Phát triển du lịch một cách ồ ạt, tính tự phát cao, thiếu một chiến lược dài hơi cùng với việc cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu đồng bộ, công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh du lịch còn mang tính thời vụ, thiếu chuyên nghiệp; đội ngũ hướng dẫn viên còn thiếu và yếu. Hệ quả là nhiều giá trị văn hóa quý báu bị hiểu sai lệch, bị bóp méo, nặng tính trình diễn, thiếu chất bản nguyên.
Không khó để nhận ra thực trạng. Ở cả vùng Tây Bắc và Tây Nguyên, các khu du lịch mọc lên như nấm, nhưng lại thiếu nét đặc trưng của sắc tộc, vùng miền. Nhiều “nhà sàn”, “nhà rông” xây mới mà không rõ bản sắc của dân tộc nào. Trong các buổi giao lưu văn nghệ, các vũ công Mường lại xòe và hát Thái. Ngay như các điệu xòe Thái vốn uyển chuyển và tinh tế trong điệu khèn, điệu sáo hay đàn tính tẩu từng say đắm lòng người, nay cũng bị “bốc lửa hóa” bởi những động tác dẫm chân, ngoáy mông. Nhiều nơi, nhiều người làm dự án du lịch đã dựng lên những buôn làng “văn hóa sắc tộc” như những phiên bản lỗi. Những nơi đó có kiểu dáng kiến trúc và trang trí mô phỏng buôn làng, có những cảnh phô diễn na ná với văn hóa tộc người, có những người đồng bào DTTS vì cuộc mưu sinh nên phải “diễn” những điều mà bản thân họ không muốn. Có một thứ “văn hóa” hoàn toàn xa lạ đã được khai thác nhằm phục vụ cho lợi ích của các nhà tổ chức du lịch. Sống ở Tây Nguyên thì hiểu, không có nghệ nhân dân gian nào lại lên sân khấu với ánh sáng xanh đỏ tím vàng đọc khan (sử thi) qua âm thanh điện tử. Không có thầy cúng nào của buôn làng lại đứng nơi chân cầu thang nhà rông xây bằng xi-măng và gào qua loa những lời khẩn cầu thần linh. Không có vật hiến sinh nào gửi thông điệp lên Yàng lại được mua vội mua vàng ngoài chợ. Không có người anh em dân tộc bản địa nào đóng khố cởi trần mà chân lại đi giày đinh bóng loáng rồi vũ điệu cồng chiêng gồng mình theo tiết tấu hiện đại. Ở những nơi đó, yếu tố “lạ” đã được các “cò” khuyến khích khai thác cốt thỏa mãn những cuộc chơi ngắn ngày của khách. Ngay cả di sản văn hóa cồng chiêng, âm nhạc thiêng, phương tiện thể hiện tâm trạng và nhu cầu giao tiếp với thần linh, với thiên nhiên và cộng đồng thân thuộc cũng đã được khoác lên vai một “sứ mệnh” khác. Với rượu cần ủ bằng men hóa học, thịt nướng từ tủ lạnh và thứ cồng chiêng biến dạng chạy theo thị hiếu, du khách thỏa mãn cuộc chơi nhưng đồng thời có những cái nhìn sai lệch và hiểu khác đi về giá trị của cồng chiêng. Trong hoàn cảnh này, do mưu sinh, chính những chủ thể của nền văn hóa rừng cũng đang “phản bội” lại những gì mà ông cha họ đã sáng tạo, trao truyền…
Không thể phủ nhận rằng, du lịch có thể được coi là một trong những cứu cánh trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống, nhưng thực trạng khai thác lệch lạc, tổ chức bát nháo, vô lối đang xảy ra ở nhiều nơi.
* * *
Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống các DTTS là hai nhiệm vụ nối tiếp nhau, gắn liền trong một cơ thể sống nên có mối quan hệ hữu cơ. Bảo tồn cũng đồng nghĩa với việc làm cho nó giàu thêm, lớn mạnh lên, thông qua đó sáng tạo những yếu tố mới. Tất nhiên, trong hành trình phục hưng, những giá trị tinh hoa truyền thống vẫn là cốt lõi và cộng đồng DTTS vẫn là chủ thể của nền văn hóa đã được xây đắp, trao truyền. Đó cũng là quá trình chọn lọc, trả lại cho cộng đồng những gì thuộc về họ, những nền tảng giá trị truyền thống thuần khiết, gốc rễ. Các cơ quan quản lý, các chuyên gia là người đồng hành, tham vấn trong quá trình lựa chọn và cũng là “bà đỡ” cho sự nghiệp khôi phục, bảo tồn và phát huy. Nhà nước không làm thay nhưng với hệ thống chính sách, cơ chế quản lý, năng lực tài chính và đội ngũ nhân lực sẽ có những tác động quan trọng. Các nhà quản lý, các chuyên gia cũng là người đứng bên cạnh cộng đồng trong việc bổ trợ các kỹ năng trao truyền cho chủ thể, tăng cường năng lực tiếp cận, khai thác, xử lý, động viên, khích lệ niềm tự hào và đam mê văn hóa dân tộc. Trong quá trình đó, những thiết chế như văn hóa, bảo tàng, du lịch, giáo dục… sẽ góp phần tích cực cho sự nghiệp này.
UÔNG THÁI BIỂU