Tên ông được đặt cho một ngôi trường trung học tại huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế năm 2013. Ông mất, dân rước linh vị về lập miếu thờ và năm 2016 ngôi miếu được xây lại khang trang hơn để cộng đồng nhang khói...
Tên ông được đặt cho một ngôi trường trung học tại huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế năm 2013. Ông mất, dân rước linh vị về lập miếu thờ và năm 2016 ngôi miếu được xây lại khang trang hơn để cộng đồng nhang khói. Người cộng sản ấy hết lòng vì dân, giúp dân thay đổi cuộc đời, được dân coi như vị phúc thần của họ. Ông tạ thế từ hơn hai mươi năm trước nhưng ngọn lửa tinh thần của ông vẫn tỏa sáng giữa rộng dài sóng nước Tam Giang…
Anh Nguyễn Ngọc - Trưởng Thôn 14 bên miếu thờ ông Phan Thế Phương |
1. Về miền Trung, tôi được nhiều lần nghe cán bộ, người dân nhắc về ông với lòng tôn kính. Cái tên đẹp của một con người với bầu nhiệt huyết dành cho dân nghèo xứ biển. Người dân xã Quảng Công (Quảng Điền, Thừa Thiên - Huế) nói, cuộc sống của họ được như bây giờ là nhờ ơn ông. Ông cùng các đồng chí của mình giúp dân lên bờ định cư, tổ chức cuộc sống. Ông dạy dân nuôi tôm, nuôi cá. Bây giờ người dân có nhà cao cửa rộng, xóm làng no ấm cũng nhờ từ con cá, con tôm. Ông là Phan Thế Phương, một người cộng sản.
Người dân kể, ngày xưa muốn qua phá Tam Giang để về xã Quảng Công phải đợi đò lâu lắm. Đêm tối hết đò thì đành phải quay về. Nay chỉ vài phút xe đã qua cầu Ca Cút. Phía bên tê, làng mạc trù phú. Tấm biển mang tên Trường THCS Phan Thế Phương khiến chúng tôi dừng lại. Thầy Nguyễn Phước cùng các cháu của lớp bồi dưỡng học sinh giỏi tiếp chúng tôi trước cổng trường với câu chuyện đầy tự hào về “bác Phương”, “ông Phương”. Công lao của ông đã được thầy trò dưới mái trường này ghi khắc từ lâu. Hình ảnh và tiểu sử của ông được trang trọng treo ngay trước cửa thư viện. Thầy Phước nói, những câu chuyện về ông đã được giáo viên thuộc làu rồi kể lại cho học sinh qua những buổi chào cờ, những lần sinh hoạt tập thể. Những học sinh nghèo vượt khó, những học sinh xuất sắc được vinh dự nhận học bổng mang tên Phan Thế Phương…
Phải qua những lối đi nhỏ, qua cây cầu khỉ với những hồ nuôi trồng thủy sản mới đến ngôi miếu mà người dân tự lập để thờ ông. Miếu đặt giữa lòng dân, giữa đời sống cần lao. Gương mặt người cộng sản Phan Thế Phương nghiêm nghị và nhân hậu. Linh hồn ông đã hòa vào sóng nước, đồng cảm với dân mỗi đêm mưa, ngày nắng nơi này. Mỗi sáng mỗi chiều người dân xuống phá mưu sinh, họ lại qua đây thắp vọng ông một nén nhang hay chỉ là cúi đầu tưởng niệm.
Cậu bé Nguyễn Ngọc mà hồi cơn bão lịch sử năm 1985 mới được ba tháng tuổi, nay đã là Trưởng thôn 14. Anh nói, nghe cha mẹ kể lại, cả làng vạn đò mấy chục hộ đói khổ sống nem nép bên bờ đầm phá. Cũng như bao nhiêu sinh phận khác, Ngọc sẽ sống tiếp cuộc đời lênh đênh trôi nổi trên đò, trên phá nếu không có một ngày bác Phương và các bác trên tỉnh về và làm cuộc đổi thay...
2. Những động cát triền miên suốt chiều dài những xóm làng như lũy thành ngoài biển, trong phá. Những động cát ngàn đời vây hãm che chắn tầm nhìn, tạo cho người dân ở vùng nhiều bão tố này một trạng thái tâm lý trú ẩn. Mênh mông nước hai phía, ở giữa không gian ấy là hiu hắt những ánh đèn dầu le lói trên những vạn đò đêm trường. Họ sống bám vào mặt nước với tư duy lệ thuộc, nặng trĩu những phận đời di thủy không biết rồi đi đến bến bờ mô…
Sau trận bão lịch sử năm 1985, người dân vạn đò vùng đầm phá lên bờ định cư. Ông Phạm Kính, một đảng viên ở Thôn 14, nhớ lại: “Dân vốn sống trên đò, làm nghề theo đuôi con cá, nói lên bờ định cư ít người chấp nhận. Năm 1986, do chưa thích nghi với điều kiện sống, nhiều hộ lại bỏ bờ xuống đò. Cuộc sống lại bấp bênh…”. Thời điểm đó, Phan Thế Phương là Giám đốc Sở Thủy sản Bình Trị Thiên. Sau khi khảo sát kỹ, ông nghĩ, cần phải thay đổi tư duy, thay đổi cách sống, cách làm cho dân. Giúp dân bỏ lối làm ăn phụ thuộc sông nước mà tận dụng tài nguyên để kiếm sống, làm giàu.
Từ đó, cứ mỗi ngày cuối tuần, ông Phương cùng các cán bộ Sở lại mang theo áo quần, gạo muối về ở trong nhà dân. Ông cùng dân đắp đập, be bờ, chọn con giống, hướng dẫn quy trình nuôi tôm. Sau một năm cùng ăn ở với dân, 2 ha tôm thử nghiệm đầu tiên ở Thôn 14 đã thành công. Từ đó, với sự hỗ trợ của ông và đội ngũ kỹ sư thủy sản, người dân trong thôn, trong vùng đã cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm, đưa nghề nuôi tôm trở thành nghề chính. Ông Phạm Dũng, một người giàu lên từ nghề tôm, nói rằng: “Gia đình tôi bắt tay vào nuôi tôm, nuôi cá từ năm 1989, nay ổn định 2,5 ha, cho lãi ròng hàng năm hơn 200 triệu đồng. Nhớ lại, ngày mới bắt tay đào hồ nuôi tôm, thấy tôm chết trắng, tôi hoảng lắm, có lúc đã lại muốn xuống đò sống cuộc đời nổi trôi. Nhưng khi được bác Phương và các kỹ sư hướng dẫn, tôi mới an lòng”. Giọng ông Dũng bùi ngùi: “Người dân chúng tôi có được ngày hôm nay là nhờ bác Phương”…
Phá Tam Giang miệt “ngũ điền” (nay thuộc hai huyện Phong Điền và Quảng Điền) dài hơn 30 cây số, thế mà từ đầu chí cuối, hỏi bất cứ ai về Phan Thế Phương đều nghe kể rành rẽ. Thế mới biết, ông nổi tiếng và dân ghi ơn đến thế nào dù ông đã qua đời hơn hai mươi năm. Như ở Thôn 14 của xã Quảng Công này, từ con số không, nay đã có 250 ha nuôi trồng thủy sản, sản lượng xuất hàng năm cao nhất tỉnh Thừa Thiên - Huế với hơn 300 tấn. Số nhà giàu từ con tôm, con cá rất đông khi nhiều hộ lãi ròng 250-300 triệu mỗi năm. Cuộc sống đổi thay, con cháu đi ra mở mày mở mặt, xóa tan những ám ảnh của chuỗi ngày u ám với những con đò cô độc neo mình lênh đênh trên đầm phá mênh mông.
Ngư dân Phạm Việt nhớ lại: “Thời đó không những dân làng tui mà cả tỉnh, cả miền Trung ni có ai nghĩ đến chuyện nuôi con tôm mô. Nhưng bác Phương nói có sức thuyết phục, tụi tui nghe theo”. Ông nói tiếp: “Từ Huế về Thôn 14 hồi đó đâu có gần, chưa có cầu đường chi cả. Muốn về đây, bác phải ra bến chợ Đông Ba, đi đò chợ mấy tiếng rồi đi bộ cả giờ đồng hồ mới tới. Rứa mà tuần mô bác cũng về”. Ông Dũng tiếp lời ông Việt: “Bác còn vô miền Nam kiếm con giống về cho chúng tôi. Lúc đầu chưa thành công, bác động viên, cùng tụi tui tìm nguyên nhân, rồi làm lại. Tui còn nhớ như in lần năm 1988, ngày vụ tôm đầu tiên thành công với 2 ha, bác Phương đã ôm chầm lấy từng người rồi khóc nức khóc nở…”.
3. Sau thắng lợi đầu từ Thôn 14, ông Phan Thế Phương tổ chức một “hội nghị đầu bờ” ở xã Quảng Công với sự tham gia của 150 đại biểu đến từ khắp nơi. Hội nghị xong, ông cho nhân rộng mô hình Quảng Công ra toàn tỉnh. Phong trào nuôi tôm bùng phát khắp Thừa Thiên - Huế từ thời điểm đó và đến bây giờ toàn tỉnh đã có trên 4.000 ha. Nhiều năm liền, nghề nuôi tôm không những góp phần xóa đỏi giảm nghèo mà còn giúp hàng ngàn gia đình khắp các huyện Quảng Điền, Phong Điền, Phú Vang, Phú Lộc… trở thành triệu phú, tỉ phú.
Năm 1991, trong một lần đi công tác phía Nam tìm con giống cho dân, Phan Thế Phương bất ngờ bị tai nạn và mất trên địa bàn Bình Thuận. Ngư dân Phạm Hóa, nhớ lại: “Tin bác Phương mất về tới Quảng Công như sét đánh ngang tai. Ngày đó, tui dẫn đầu đoàn Thôn 14 lên Huế viếng bác. Đám tang bác được tổ chức ngay ở Sở Thủy sản, người đi đưa tang đông đời tui chưa từng thấy…”. Hàng vạn người dân chài vùng đầm phá Tam Giang đã lặn lội lên thành phố Huế tiễn ông. Họ rước linh vị của ông về lập miếu thờ, tôn ông là thành hoàng. Từ đó, miếu ông Phương trở thành một địa chỉ hành hương của ngư dân đầm phá…
* * *
Trước di ảnh ông, tôi nhẩm lại vài câu trong bài thơ “Mồ anh hoa nở” của nhà thơ Thanh Hải: “Trên mộ người cộng sản. Hoa hồng đỏ và đỏ. Như máu nở thành hoa…”. Sống vì dân, chết dân kính, dân thương, dân chôn cất, dân lập miếu thờ. Bài thơ ấy nhà thơ xứ Huế viết dâng hương hồn người chiến sỹ cách mạng bị giặc giết trong kháng chiến chống Pháp mà đọc trước hương hồn người cộng sản Phan Thế Phương chiều nay sao vẫn hợp cảnh, hợp tình đến thế!
UÔNG THÁI BIỂU