"Nương náu" dưới tán rừng

05:03, 02/03/2022
Người đàn ông Cơ Ho đứng cùng tôi bên mép buôn Đưng K’Nớh trong buổi chiều buốt giá này là Rơông Ha Tin. Chỉ tay lên dãy núi sừng sững trước mặt, anh nói: “Từ xưa nay, người trong buôn mình biết, đỉnh cao Yũ Till trên núi Yàng Hău là nơi có rừng thiêng, ở đó có ngọn giáo thần cắm sâu trên tảng đá khổng lồ. Không ai dám leo lên Yũ Till chặt cây, săn thú. Nếu ai vào đó lấy gì của rừng thiêng thì Yàng sẽ phạt, bắt phải chết đấy...”.
 
Người bản địa Tây Nguyên sống hài hòa với thiên nhiên hoang dã
Người bản địa Tây Nguyên sống hài hòa với thiên nhiên hoang dã
 
1. Ôi trời! Vậy mà tôi thấy dãy núi Yàng Hău bên dòng sông Đạ Lôi đầu nguồn K’rông Nô này trông thật hùng vĩ, đang định rủ Ha Tin vào đó một chuyến. Tôi hỏi, Ha Tin đã từng nhìn thấy ngọn giáo thần cắm trên tảng đá thiêng lần nào chưa? Anh bảo, đó là nghe ông bà nói vậy chứ chưa bao giờ dám đặt chân vào đó. Câu chuyện phủ màu huyền thoại của Ha Tin dân miền Đưng K’nớh làm cho tôi liên tưởng về những ngọn núi, những cánh rừng thiêng có mặt khắp nơi trên đại ngàn Tây Nguyên. 
 
Bao năm lang thang khắp miền quê của con dân xứ thượng, tôi cảm nhận, núi rừng đối với họ vừa bí ẩn, hoang dã, vừa thân thiết, gần gũi. Trên đất Tây Nguyên này, ở đâu có núi rừng ở đó có thần linh. Cả không gian đại ngàn đều là nơi ngự vì của các vị thần, nơi nào núi càng cao, rừng càng sâu thì thần linh nơi đó càng thiêng. Tôi đã thấy đồng bào nam Tây Nguyên sùng kính nhiều vị thần của họ. Đó là Yàng N’du dựng nên trời đất, rồi Yàng Bnơm (thần Núi), Yàng Brê (thần Rừng), Yàng Dà (thần Nước), Yàng Máttơngai (thần Mặt Trời), Yàng Kơnhai (thần Mặt Trăng), Yàng Tiah (thần Đất), Yàng Trồ (thần Bầu Trời) và gần gũi, thân thiết như Yàng Kòi (thần Lúa) lo cái ăn hay Yàng Hìu (thần Nhà) lo sắp đặt chỗ ở. Tồn tại bên cạnh các vị phúc thần còn có muôn loài ma quỷ hiện hữu giữa núi rừng bí ẩn mà đồng bào gọi tên chung là “cà”. Các vị thần trong tâm thức của cư dân rừng, được phân công mỗi vị một việc. Thần cũng ngày đêm, sớm tối cần mẫn lo sắp xếp việc sinh cơ lập nghiệp, lo cái ăn, cái uống, lo sinh nòi đẻ giống cho muôn loài cư ngụ ở rừng. Trong khi các vị phúc thần dốc lòng phò trợ cho buôn làng no ấm, chứng dám cái hay điều tốt của dân làng, xử phạt những người làm việc xấu thì các thế lực “cà” chăm chăm rình rập làm hại lương dân. Người Tây Nguyên nương náu dưới tán rừng, họ vừa phải lo lễ lạt cho các vị phúc thần ưng cái bụng lại vừa phải làm vui lòng ma quỷ...
 
Một thanh niên dân tộc Cơ Ho tại huyện Lạc Dương làm hướng dẫn viên du lịch trải nghiệm rừng
Một thanh niên dân tộc Cơ Ho tại huyện Lạc Dương làm hướng dẫn viên du lịch trải nghiệm rừng
 
2. Các dân tộc bản địa Tây Nguyên ngàn năm sinh tồn giữa không gian đại ngàn nhưng không bao giờ họ tự nhận là chủ nhân núi rừng. Trò chuyện với nhiều già làng, tôi hiểu ra rằng, đồng bào ứng xử với tự nhiên như là một cách dự phần vào đời sống hoang dã. Họ coi mình là một thực thể cộng sinh, một thành phần trong muôn ngàn giống loài tự nhiên. Không nên phán xét mà hãy trân trọng về một mạch tư tưởng, một thái độ ứng xử thể hiện sự tôn trọng, sự hòa hợp giữa con người với không gian sinh tồn của mình. Đại ngàn hùng vĩ và nhân văn thêm bởi hệ minh triết rừng, bởi lẽ sống của con người giữa thăm thẳm mênh mang.
 
Nhìn ánh mắt của Rơông Ha Tin, tôi nghĩ rằng, anh đang nói về khu rừng thiêng nơi mình đang sống bằng một tâm tưởng lễ độ, một cách tự nguyện thực hiện quy ước giữa thần linh và con người từ thuở xa xưa. Thần có linh của thần, người có phúc của người. Giữa thiên nhiên hoang dã và bí ẩn, con người thật nhỏ bé, nhưng là sự nhỏ bé trong tâm thế bình đẳng. Trước núi rừng, trong tinh thần của cư dân rừng vừa có sự sợ hãi cố hữu vừa có sự thân thuộc thường ngày. Họ tìm cách đối thoại để thêm phần hiểu biết mà đối phó. Họ tìm kiếm phương cách đối đãi qua các nghi lễ nhằm đạt sự thỏa hiệp lại vừa hòa hợp bằng những phép ứng xử trở thành tập quán pháp. Và rồi, không biết tự bao giờ, lẽ sống của người ở rừng cũng hợp theo lý lẽ của rừng. Tươi xanh và cội cằn. Khoan hòa và thịnh nộ. Bao dung và tàn nhẫn. Dịu dàng và bạo liệt. Suốt bao đời qua, sống giữa đại ngàn hoang dã với muôn vàn đe dọa và cả những cơ hội vô tận, người ở rừng đã trải qua biết bao năm tháng gian nan và để lại một hệ thống di sản văn hóa đa dạng và lưu truyền một kho tàng tri thức bản địa vô giá...
 
Ông Ya Loan ở vùng Đơn Dương nói với tôi rằng: “Từng có thời du canh, phát rừng làm rẫy, nhưng đồng bào mình ngày xưa không phát rừng tùy tiện. Người Chu Ru, Cơ Ho, Mạ không tàn phá những cánh rừng đầu nguồn. Là những cư dân “ăn rừng” mưu sinh nhưng việc khai thác lâm sản của ông bà trong quá khứ chỉ dừng lại ở nhu cầu ăn, ở, sinh hoạt của cộng đồng mà không tạo nên sinh lợi về tiền tệ.” Không được chặt cây hay săn bắt thú vật ở khu rừng đầu nguồn, theo các già làng, nếu tự ý chặt, bắt ở những khu rừng này sẽ bị thần linh trả thù, gây mất mùa, dịch bệnh hay chết chóc. Thực ra, sống ở rừng, người Tây Nguyên nhận thức sâu sắc giá trị của rừng đầu nguồn đối với sự bảo tồn và phát triển hệ sinh thái. Khi canh tác nương rẫy, đồng bào cũng trừ lại những khoảnh rừng trên đỉnh núi, giữ lại để các vị thần có nơi trú ngụ. Nhưng thực sự điều này là khoa học, tri thức và kinh nghiệm. Người Tây Nguyên hiểu rằng, những khoảng rừng này chống lại mưa lũ, xói mòn; đồng thời là tác nhân tái sinh các loại cây hoang dại khi rẫy được bỏ hóa trong quá trình luân canh.
 
Thời xưa, nếu thiếu một vài cây gỗ để làm nhà hay làm quan tài thì các gia đình xin phép chủ làng rồi đem lễ vật cúng ở vị trí cây định chặt hạ để xin phép thần linh. Theo các già làng, trước đây, mỗi khi dân trong buôn hạ cây, họ phải làm lễ cúng Yàng Brê. Lễ vật có gà, heo hoặc dê và không thể thiếu rượu cần. Tín ngưỡng thờ Thần Rừng với những kiêng cữ, nếu gạt bỏ những màn sương huyền bí, có thể thấy đó là một phương thức tác động vào tự nhiên một cách khoa học, ngăn chặn các hành động tàn phá rừng một cách vô lối...
 
Người Cơ Ho hát rằng: “Sông suối là của chung/ Cá dưới suối ai xúc cũng được/ Bắt ếch con còn chừa ếch mẹ/ Chặt cây tre phải chừa cây măng/ Đốt tổ ong phải chừa ong chúa/ Bẫy cá bằng thuốc sẽ làm suối nghèo...”. Luật tục của người Mạ cũng quy định rõ về những khu rừng nào thì được và những khu rừng nào thì không được tự ý chặt hạ, khai thác: “Brê krong, cau dồs/ Brê Yàng, cau dồs/ Brê rơlau, ờ dồs...” (Rừng thiêng, bị phạt/ Rừng thần, bị phạt/ Rừng thường, cứ việc...) Với những tri thức, kinh nghiệm, từ xa xưa, cư dân rừng đã có ý thức cao trong việc bảo vệ tài nguyên. Phương thức tác động, cách ứng xử chứa tính nhân văn sâu sắc, thể hiện sự hiểu biết và tôn trọng thiên nhiên. Quy ước bảo vệ rừng thể hiện rõ trong pơn dik - pơn ding, nrí-nrình (luật tục) của cộng đồng. Ở đó, quyền lợi gắn liền với trách nhiệm, hình phạt. Trách nhiệm là chính, còn hình phạt có chức năng củng cố trách nhiệm. Không phân biệt người trong hay ngoài cộng đồng, hễ vi phạm rừng thiêng sẽ bị xử phạt theo luật tục: nhẹ thì phải cúng một con gà, một chóe rượu; nặng thì phải cúng dê, trâu tạ lỗi Thần Rừng. Ở cộng đồng người Mạ, khi một người đàn ông đến tuổi trưởng thành, bản thân anh ta nhận thức được rằng mình đã mang rất nhiều món “nợ”: nợ cha mẹ, họ hàng, làng buôn, nợ các thần linh, nợ núi rừng đã nuôi sống anh ta. Chính vì ý thức mang món “nợ” tinh thần đó, mà khi “ăn rừng”, người đàn ông Mạ chỉ lấy từ rừng những gì mình cần, lấy vừa đủ, không để dư thừa, phí phạm hoặc lấy nhiều để tích lũy. Vì khi lấy đi từ rừng một sản vật nào đó, anh lại nợ thêm thần núi, thần rừng một giá trị tương đương mà có khi phải trả bằng cả mạng sống của mình… 
 
3. Theo nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc, trong xã hội cổ truyền Tây Nguyên, rừng núi mênh mông nhưng có chủ rành mạch. Không có đất và rừng vô chủ. Người chủ của đất rừng chính là các làng, từng làng. Rừng núi đã được “chia” cho từng làng từ thời xa xưa, Yàng đã giao cho từng làng ranh giới rõ rệt. Đất, rừng của làng là thiêng liêng, không ai được xâm phạm, không ai được làm ô uế. Cũng theo ông Nguyên Ngọc, sở hữu rừng của một làng gồm có các loại rừng: Rừng đã thành đất thổ cư; rừng sản xuất (khu rừng dân làng khai thác làm rẫy); rừng sinh hoạt (nơi dân làng tìm lấy những thứ cần thiết cho mọi sinh hoạt của mình như mật ong, dây mây, rau ăn, con thú để săn bẫy, cây gỗ làm nhà); rừng thiêng (nơi trú ngụ của các vị thần, không ai được động đến, thường là rừng đầu nguồn). Tất cả các loại rừng đó đã hợp thành không gian sinh tồn, đồng thời tạo nên một không gian xã hội. Và như thế, làng ở Tây Nguyên là một thiết chế “làng rừng”. 
 
Có rừng thì có làng, cư dân các buôn làng sống trong tâm thế rừng như là làng nằm trọn trong không gian đại ngàn. Rừng với người Tây Nguyên không chỉ là nguồn tài nguyên, là hệ sinh thái mà còn là cội nguồn của đời sống tâm linh, phần sâu xa nhất của đời sống con người. Trong thẳm sâu tâm hồn của họ, có một tình cảm ruột thịt và một lòng kính trọng thiêng liêng với rừng, họ coi cây rừng đúng như một sinh vật sống, cũng có linh hồn, cũng tràn đầy cảm xúc, cũng vui sướng, hạnh phúc, khổ đau. Người Tây Nguyên sống theo “đạo đức của rừng”, vươn tới sự hoàn thiện, hiền minh như rừng. Mất rừng thì con người và cộng đồng người mất đi cái nền rộng lớn, bền chặt, thẳm sâu nhất của mình, trở nên bơ vơ, tha hóa, mất gốc, mất cội nguồn. Văn hóa Tây Nguyên là văn hóa rừng. Toàn bộ đời sống văn hóa đó, từ hệ giá trị đến những tín hiệu nhỏ đều là biểu hiện mối quan hệ khăng khít, máu thịt của con người, của cộng đồng với rừng...
 
Nương náu dưới tán rừng, cư dân rừng đã tạo ra một hệ minh triết hòa hợp theo lý lẽ của rừng; vừa thiêng liêng, vừa gần gũi, nhân văn và vô cùng thực tế. Bởi vậy, khôi phục “tâm thế” rừng để phát triển bền vững Tây Nguyên là khôi phục cả một không gian văn hóa ngàn đời qua đồng bào từng sáng tạo, đắp bồi và trao truyền.
 
Ghi chép: UÔNG THÁI BIỂU