Con đường nối hoa và biển

09:10, 02/10/2014

Vào lúc 4 giờ chiều, chúng tôi khởi hành từ Đà Lạt theo tỉnh lộ 723 về Nha Trang. Con đường tráng nhựa phẳng lì men theo sườn núi với gió rừng hoang lạnh buốt. Khi đến gần đèo trời bắt đầu nhá nhem tối, sương mù dày đặc tầm nhìn chỉ trên 10 mét…

Đèo Khánh Vĩnh dài 33km, cao 1.948m là ranh giới giữa Lâm Đồng - Khánh Hòa. Đây là con đường nối liền 2 thành phố Đà Lạt - Nha Trang dài 140km vừa được đưa vào sử dụng cách đây vài năm. Từ cao độ 1.500m tại Đà Lạt lên cao độ 1.700m ở Lạc Dương rồi xuống đồng bằng, con đường tựa như rắn bò vắt ngang theo các sườn núi. Nơi đây khách lữ hành đi trong sương mù, một ngày hai lần sáng sớm và chiều muộn. Đứng trên đỉnh đèo mù sương này, bạn cảm nhận được một phần non sông gấm vóc của quê mình. Nơi đấy có cả hoa và biển.
 
Đêm ngủ rừng với “Vua cam”
 
Vào lúc 4 giờ chiều, chúng tôi khởi hành từ Đà Lạt theo tỉnh lộ 723 về Nha Trang. Con đường tráng nhựa phẳng lì men theo sườn núi với gió rừng hoang lạnh buốt. Khi đến gần đèo trời bắt đầu nhá nhem tối, sương mù dày đặc tầm nhìn chỉ trên 10 mét. Anh Nguyễn Phú Tuấn - chủ trang trại sâm và cam ở chân Núi Bà, phải bật gạt nước xua đi màn sương, nhưng khi lên đỉnh đèo trời tối sầm lại, toàn khu vực này chỉ còn bóng đêm và sương mù mờ ảo. Biết không thể mạo hiểm, anh Tuấn đề nghị ngủ lại trang trại của anh gần đèo Khánh Vĩnh.
 
Điểm dừng chân thơ mộng trên cung đường 723. Ảnh: Lê Hoa
Điểm dừng chân thơ mộng trên cung đường 723. Ảnh: Lê Hoa
 
Đêm ở đỉnh đèo giá buốt đến mức chúng tôi phải đốt lửa ngồi hơ hơ hai bàn tay rồi úp vào đôi tai tìm kiếm sự ấm áp tạm thời. Sau vài phút, anh Tuấn bật đèn pin đi nhổ khoai mì về luộc chấm với muối ớt. Bữa ăn tối nhẹ nhàng nhưng đầy kỷ niệm. Những củ khoai mì bùi, thơm cộng với muối mặn và ớt cay làm tôi nghĩ đến phận người mặn nồng cay đắng hay vinh quang, nghèo hèn. Trong cõi người ta ai không trải qua những sự kiện này, cuộc đời sẽ trở thành vô nghĩa, thậm chí làm cho con người xa lạ ngay chính với đồng loại của mình.
 
Đèo Khánh Vĩnh cao gần 1.700m, đó là bức tường chắn gió thiên nhiên của Nam Tây Nguyên từ hướng đông thổi vào. Vì vậy, khi mùa mưa đến, bất kỳ cơn bão hay áp thấp nào hình thành từ biển Đông đổ bộ vào đất liền đều bị bức tường này chặn lại, cả khu mây đen đan kín bầu trời rồi mưa như trút kéo dài cả tuần. Ban đêm nhiệt độ xuống thấp kèm theo những cơn gió rừng hoang thổi thốc lạnh buốt cả ruột gan. Do địa hình như thế nên đỉnh đèo này thời tiết rất lạ, vào các tháng khô hạn cũng đều xuất hiện mưa, có lúc mưa dầm. Những cơn mưa nhỏ chập chờn giăng giăng, để rồi sau cơn mưa trời lạnh hơn, sương mù nhiều hơn phủ lên cánh rừng già trắng xóa.
 
Anh Nguyễn Phú Tuấn là một kỹ sư địa chất, người Hà Tây nhưng định cư ở Đà Lạt gần 30 năm. Là người đi nhiều, có kiến thức về đất đai thổ nhưỡng, anh cho biết trên đất nước mình anh chưa từng gặp miền đất nào có thời tiết lạ như ở đây. Sáu năm về trước, từ Nha Trang lái xe về Đà Lạt ban đêm, anh phải trèo đèo với tốc độ 20km giờ, vì lượng sương mù dày đặc không thể nhận dạng thành taluy để định hướng tâm đường, nhưng từ những hình ảnh mưa rừng, sương mù và giá lạnh ở Khánh Vĩnh làm anh nhớ đến vườn cam đặc sản của ông nội ngoài Bắc. Cam Canh ở Hà Tây là loại cam dùng để “tiến vua” ngày trước: vỏ mỏng, ngọt lịm với mùi hương nhẹ nhàng. Ở Hà Tây, hiện nay, Cam Canh càng ngày càng mất đi, nhưng khi trời càng lạnh, mưa phùn, những gốc cam già còn sót lại càng sai trái, vị càng ngọt và thơm hơn. Chính vì thế anh đã vận động tài chính dòng họ Nguyễn Phú đầu tư trồng 40 hecta cam này tại buôn K’Long, K’Lanh gần đèo Khánh Vĩnh để giữ lại hồn cam từ thời ông nội của mình, và kết quả tại khu rừng này cam “tiến vua” của dòng họ Nguyễn Phú chất lượng còn tốt hơn ở quê. Cam Canh sau khi có kết quả thành công tại Đạ Chais đã trở thành loại đặc sản Lâm Đồng và đã có mặt tại các siêu thị lớn ở Tp. HCM, được khách hàng ưa chuộng. Sau khi thành công tại buôn K’Long, K’Lanh, anh Tuấn mang trồng rải rác thử nghiệm toàn khu vực Tây Nguyên cũng đã có kết quả hơn 2 năm nay. Cây Cam Canh kế vị tại Lâm Đồng, nó sẽ là cây chủ lực xóa đói giảm nghèo cho những hộ có ít đất canh tác ở Tây Nguyên, vì một gốc cà phê sau 5 năm cho được 10 ký nhân, còn 1 gốc Cam Canh với thời gian đó cho 30kg, giá mỗi ký 45 ngàn. Điều đáng nói số lượng cây cam được trồng gấp 3 lần số lượng cây cà phê cùng một diện tích.
 
Anh Tuấn pha cho tôi ly trà Đẳng sâm Núi Bà do chính tay anh trồng, vừa rút trong cốp xe một bịch cam “tiến vua” ăn thử trước ánh đèn dầu tù mù ngay tại nông trại giữa rừng. Trước khi vặn ngọn đèn dầu nhỏ xuống để ngủ, ông kỹ sư - “Vua Cam Canh” còn dặn tôi đến 4 giờ sáng cố gắng dậy sớm để nghe tiếng gọi của rừng, cụ thể thế nào tới lúc đó sẽ biết, anh cười khặc khặc rồi trùm chiếc áo mưa đen cánh dơi phủ lên đầu, vài phút sau đã nghe tiếng ngáy đều đều của một chuyên gia địa chất quanh năm lăn lộn rừng già.
 
Chuyện ngủ rừng đối với tôi là thường xuyên, nhưng được ngủ trong trang trại có trà để uống, có khoai, có cam để ăn, lại có người tâm sự, đặc biệt với “Chuyên gia đào mỏ” kiêm nông dân công nghệ cao không có gì thú bằng. Bốn giờ sáng kỹ sư Tuấn đã thức dậy nhóm lửa pha trà Đẳng sâm chờ đợi. Ngoài vườn bóng tối vẫn choàng bộ áo đen trầm mặc. Anh cho biết sắp đến giờ đàn vượn thức dậy gọi đàn, tiếng hú bao giờ cũng theo thứ tự đẳng cấp, vì vượn luôn sống có tổ chức trong quần thể, tiếng lanh lảnh khác với tiếng trầm, tiếng ngắn khác với tiếng dài. Quả đúng như lời anh Tuấn, bốn giờ rưỡi sáng, mở đầu “tiếng gọi rừng hoang” là tiếng hú của con vượn đầu đàn, tiếng hú dài lanh lảnh réo rắt vang xa đến 3km như xác định phần lãnh thổ của mình. Tiếp theo là tiếng trầm của cụ vượn già, sau đó vượn mẹ, vượn con, vượn trai, vượn gái cất lên vang dội khu rừng… 
 
Buôn làng xưa và nay
 
Buôn K’Long, K’Lanh thuộc xã Đạ Chais (huyện Lạc Dương), bây giờ cả hai xã Đạ Nhim và Đạ Chais nằm trên con đường của hoa và biển. Vào năm đầu 90, sau khi tốt nghiệp đại học chưa tìm được việc làm, tôi xin đi theo các anh, các chú nhà báo, nhà văn về thăm bà con dân tộc ở chiến khu xưa là Đạ Chais bây giờ. Ngày ấy, đến được buôn với 50km đường rừng thật sự không phải dễ dàng. Chúng tôi vừa đi xe vừa lội bộ cả ngày. Đường đến Đạ Chais phải lội suối trèo đèo đối mặt với gai rừng và vắt. 
 
Thuật ngữ K’Long, K’Lanh có nghĩa là thung lũng trăng. Chuyện kể rằng: Ngày xưa tại vùng đất dưới chân Núi Bà trăn rừng nhiều lắm, chúng sống trong các hang đá ven theo dòng Đạ Nhim. Những buổi sáng đẹp trời dòng họ trăn trườn mình lên thảm cỏ phơi nắng. Thời chiến tranh hai buôn K’Long, K’Lanh sống gần nhau trên 80 nóc nhà khoảng 400 con người. Bà con từ trẻ đến già đều theo cách mạng, họ đã giúp đỡ, nuôi giấu cán bộ và chiến sĩ quân giải phóng. Sau ngày hòa bình, được Nhà nước phong tặng danh hiệu xã anh hùng kháng chiến. Nhưng thời ấy, ở tận vùng sâu, vùng xa chưa có đường sá nên cuộc sống bà con vẫn sống dựa vào rừng. Năm giờ chiều, chúng tôi ghé thăm chị Ka Sá Hà Nhang, trong gian nhà sàn ong ong mùi khói, chị Nhang ngồi bế con, đứa cháu gái 10 tháng tuổi của mình ngậm núm vú của mẹ day ngang day dọc. Quanh bếp lửa hồng nơi chúng tôi đang ngồi, mặc dù ngọn lửa lên cao nhưng không sưởi ấm nổi lòng người. Đêm rừng hoang phủ lên buôn làng một cách lặng lẽ, đến khi có chút rượu, bà con trở về quá khứ, những câu chuyện chiến tranh đánh đồn tải đạn râm ran trỗi dậy một cách hùng hồn. Ở một số nơi tôi đã đi qua, chiến tranh chỉ còn là câu chuyện cổ tích, nhưng ở đây như vừa mới xảy ra hôm qua, bà con vẫn tự hào về quá khứ. Đời người ta, mọi thứ đều phải ra đi nhưng ký ức bao giờ cũng còn ở lại. Năm rồi tôi được gặp già làng K’Prẹt dân tộc Mạ ở đầu nguồn sông Đạ Đờn. Mới có 4 giờ chiều nhưng cả hai ông bà ngồi co ro trong căn nhà sàn quanh bếp lửa hồng. Ông K’Prẹt cũng kể cho tôi nghe một thời oanh liệt của mình. Người có tuổi thường vẫn thế, họ có thể nhắm mắt để ký ức hiện về như một bộ phim dựng lại đời mình mà không cần kịch bản, trường quay hay đạo cụ ánh sáng. Khi được hỏi về đồng đội xưa, ông vừa buồn vừa vui: “Những người cùng thời với tao nhiều người đã chết vì bom đạn hay già yếu. Nó đã chết thay cho tao, tao còn sống đến được bây giờ là ngon rồi”.
 
24 năm trước, đêm ở K’Long, K’Lanh rất dài. Các mẹ, các chị cứ lọ mọ trong căn nhà sàn, tôi không biết họ đang làm gì hay đang sống bằng quá khứ. Đến lúc trở về, bà con tiễn ra tận cuối buôn, đi được cả trăm mét chúng tôi vẫn còn nghe tiếng Ka Sá Hà B’Rang nói vọng theo núi rừng: “Cho mình gởi lời thăm ông A, ông B…”. Những ngày xin đi theo các anh em làm báo, viết văn, tôi mới nhận ra đây là một nghề cao quý, cái nghề viết phóng sự rừng già, có lúc lạc đường đói lả cả ngày, nhưng lại có niềm vui là góp phần đưa hơi thở ở các vùng sâu, vùng xa đến những người phố thị.
 
Buôn K’Long, K’Lanh ở Đạ Chais bây giờ đã có điện, đường, trường, trạm. Nhiều nhà xây mới, con cái trên 60% được học đến cấp 2, cấp 3, có nhiều em vào đại học. Con gái ở ba xã Đạ Sar, Đạ Nhim, Đạ Chais không biết vì lý do gì lại đẹp hơn con trai, nhiều em xinh như người mẫu, đến mức ngỡ ngàng. Những bông hoa rừng này đã và đang là niềm tự hào của bà con sống giữa rừng núi đại ngàn. Tại Đạ Chais bây giờ, chuyện gùi nước đi từng đoàn vào mùa khô mang về nhà sử dụng đã trở thành ký ức, vì Chính phủ đã bắc hệ thống nước sạch chảy về đến tận buôn làng. Các xã anh hùng ngày xưa nằm trên con đường này, hiện nay chưa phải giàu có, nhưng sức khỏe người dân được các y sĩ chăm sóc. Người K’Ho nhánh Cil đã bắt đầu trồng hoa, trồng thuốc nam, ra đường đi xe máy. Trên đường đi, tôi tình cờ gặp được Bontô Hà Gliêng, Chủ tịch xã Đạ Chais. Ông chủ tịch 40 tuổi cho biết: “Bà con ở đây ngoài trồng bắp đã trồng thêm cà phê, nhưng chủ yếu nhận bảo vệ chăm sóc rừng quốc gia Bidoup - Núi Bà, mỗi hộ nhận vài chục hecta với tiền công từ 400 đến 450 ngàn một hec/năm. Bà con mình ở đây xem rừng nhà nước như của mình, vì bà con giữ rừng ăn lương mà!”. Theo ông Đỗ Mạnh Hùng - Phó Giám đốc Vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà cho biết, mỗi năm vườn chi trả công giữ rừng cho bà con trên 12 tỉ đồng theo dự án phát triển đời sống lâm nghiệp Tây Nguyên.
 
Trên đỉnh đèo Khánh Vĩnh
 
Con đường tắt từ Đà Lạt về Nha Trang ngoài đi qua các buôn làng dân tộc còn  hầu hết đi ven theo đồi thông và rừng nguyên sinh. Tại đỉnh đèo này có một hình ảnh rất lạ, dường như các ngọn cây đều bằng nhau, những đám rừng hàng ngàn năm tuổi chỉ cao từ 7 đến 10m, nên gọi là khu rừng lùn. Những chú cây lùn bám vào vách đá, phủ trên núi đá với độ cao 1.948m, tất cả các chú lùn ở đây đều khoác lên mình những tấm áo tuyệt tác bằng rêu: Rêu xanh mướt, rêu xám, rêu nâu xỉn… và trong cánh rừng lùn này có 300 loài phong lan, đến mùa lan nở, tôi chưa thấy khu rừng nào có nhiều lan đẹp ẩn hiện trên toàn vùng như khu Bidoup - Núi Bà.
 
Có rất nhiều tên gọi cho con đèo này. Người dân Khánh Hòa gọi là đèo Khánh Lê, người Lâm Đồng gọi đèo Bidoup, vì lấy đỉnh núi Bidoup gần đó. Cũng có người gọi là đèo Hòn Giao. Cho dù gọi tên gì đi nữa, thì đèo vẫn là con đường đầy chất thơ và cảm xúc. Khách lữ hành nhìn cảnh rừng núi đại ngàn vừa dùng tay phe phẩy sương mù và trải nghiệm đời mình giữa hai tiểu vùng khí hậu.
 
Ở cung đường hoa và biển này, du khách “Tây và ta ba lô” xuất hiện khá nhiều, họ đạp xe thong thả về hướng Nha Trang hay ngược về Đà Lạt một cách nhàn hạ. Chúng tôi dừng xe làm quen với hai du khách nước ngoài. Đó là vợ chồng ông Steven, người ở vùng bắc Ailen. Steven 40 tuổi, vợ kém hơn ông 5 tuổi, hai ông bà đạp xe từ Sài Gòn lên Đà Lạt, sau đó tiếp tục xuống Nha Trang để tận hưởng khí hậu đại dương nhiệt đới. Ông Steven vui vẻ cho biết: “Tuyến du lịch biển rừng của con đường này quá lý tưởng đối với chúng tôi. Nơi vừa có khí hậu ôn đới với cảnh quan núi rừng vừa có biển xanh ở Nha Trang. Bà Maria nhà tôi thích biển xứ nóng hơn, bà ấy muốn nước da mình được nắng gió chuyển sang gam màu như người Brasil trong chuyến đi này”. Bà Steven nhìn chúng tôi cười bẽn lẽn như cô gái xuân thì. 
 
Trong nghề lữ hành, được đi nhiều nơi, nhưng tôi gần như chưa từng thấy cặp vợ chồng người Việt nào đạp xe đi hâm nóng tình yêu ở độ tuổi này. Và nếu có, thế nào cũng bị người trong nước gán cho cái tội “hâm”! Điều ấy cũng minh chứng rằng, người Việt mình chưa quen với loại hình du lịch này. Năm rồi, tôi gặp một chàng trai người Pháp ngồi xoài ra uống nước mía ở đầu đèo Prenn. Sau cuộc chuyện trò đến mức thân tình, tôi vỗ vai cậu ta “Ở Việt Nam đi du lịch bằng xe đạp một mình ở độ tuổi của ông chỉ xảy ra với mấy thằng cha thất tình”. Anh ta ngửa mặt lên trời cười sằng sặc giải thích “Chỉ có mấy thằng dại gái mới dẫn bồ đi theo. Ông biết không! Con gái dở hơi lắm, nó đòi ngủ khách sạn cao cấp, ăn thức ăn lạ, mua quà kỷ niệm, mình làm sao đủ tiền để chu cấp cho nó. Mình đi chơi cho biết đó biết đây, chứ đâu phải đi hưởng thụ!”.
 
Tuyến đường hoa và biển này không những là một bảo tàng thiên nhiên kỳ vĩ mà còn là khu kinh tế của khí hậu ôn đới. Lâm Đồng đang có phương án mở rộng vành đai, khôi phục truyền thống văn hóa của cư dân bản địa. Mai đây, thế hệ kế thừa đứng trên đỉnh Hòn Giao mây vờn gió núi ngẫm nghĩ cha ông mình đã làm nên một sự kiện diệu kỳ. Không biết trong hàng vạn con người ấy có ai còn nhớ đến những ngôi nhà tranh ong ong màu khói, có ai nhớ đến người và xe thi công mấy ngàn ngày với khói bụi mù trời, mưa rừng ẩm ướt. Và chúng ta những người đang sống từ miền xuôi đến vùng cao đều có niềm tự hào chung là tài sản cha ông đã để lại, đã được con cháu giữ gìn và tôn tạo đẹp hơn.
 
Ký sự: Trần Đại - Phú Tuấn