Uống trà có chi phải cầu kỳ. Cứ bỏ trà vào ấm, đổ nước sôi vào. Sau đó, chế ra tách uống. Ðiều đó có đúng không?
Uống trà có chi phải cầu kỳ. Cứ bỏ trà vào ấm, đổ nước sôi vào. Sau đó, chế ra tách uống. Ðiều đó có đúng không?
|
Trà đạo của người Nhật. Ảnh: internet |
Trời nắng chang chang, chờ mạ tôi mua chiếc chiếu ở chợ Đông Ba đã hai chục phút, tôi thấy khát khô cổ họng dù đã dựng xe ở chỗ có bóng râm. May thay! Một o bán trà đá đi ngang. Tôi liền gọi mua. Uống xong ly trà đá đỡ khát hẳn. Mấy chú xích lô, xe thồ, bốc vác và mấy mệ, mấy o tiểu thương cũng rối rít kêu o bán trà đá lại để mua. Trà đúng là “cứu tinh” cho cơn khát.
Có lần, một người bạn thời đại học hiện công tác ở Quảng Bình mua vé tàu vào Huế có công chuyện, tiện thể “í ới” điện thoại gặp bạn bè. Thế là, nhà văn Lê Vũ Trường Giang (hiện đang công tác tại Tạp chí Sông Hương) và tôi cùng lên Ga Huế đợi đón tại một quán có bán nước trà kèm mè xửng. Nhìn dòng người qua lại trong cái lạnh cắt da cắt thịt của đêm đông, hai chúng tôi không ai bảo ai đều cầm tách trà nóng trên tay. Nó như một cái lò sưởi thu nhỏ. Tiện lợi hơn, nó không những sưởi ấm được lòng bàn tay mà khi uống vào còn sưởi ấm cả thân người.
Cách đây không lâu, tôi ngồi uống trà với chú Nguyễn Xuân Hiển, hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, tại tư gia của chú. Lần đầu tiên, tôi được uống trà trong một cái chén có hoa văn rất đẹp. Nước trà còn ngâm thêm với đọt trà non hái ngay trong vườn. Cảm giác khác lạ trong văn hóa hiện rõ trong tôi. Không thể uống nhanh được. Phải từng ngụm, từng ngụm. Để thưởng thức như sợ mất đi sự thanh cao.
Ở Huế, bán đồ ăn, thường kèm theo ấm trà cho khách uống. Như, ngày nắng nóng, quán bún bò tôi thường ăn luôn có hai ấm trà khác nhau. Ấm trà nóng và ấm trà đá. Ngày mưa và lạnh, thì lại là hai ấm trà nóng. Không chỉ có thế, ở Huế, các quán bán cà phê luôn mang ly nước trà cho khách uống trước.
Trà nguyên là một vị thuốc. Sau, nó trở thành thức uống giải khát. Trà bắt nguồn từ Trung Quốc như ghi chép trong cuốn “Trà Kinh” của Lục Vũ. Rằng, Thần Nông là “ông tổ” của cây trà. Chuyện kể rằng: Một hôm, Thần Nông cùng vợ con lên núi, giữa chừng núi vua thấy khát nước thì ngay lúc đó một chiếc lá rơi xuống cạnh chân Ngài. Thần Nông lượm lên và vò nát trong tay mình, chất nhựa dính vào ngón tay và Ngài đưa lên miệng nếm. Vị đăng đắng cho Thần Nông biết nó có dược tính và cảm thấy cơn khát mất đi. Thần Nông bèn đem chiếc lá đó sắc lên, và Ngài là người đầu tiên uống trà. Lại có truyền thuyết nói Thần Nông đun nước dưới một gốc cây, lá cây này rụng và rơi vào nồi. Nước trong nồi có màu vàng xanh và mùi vị thơm ngon, uống vào hết khát: đó là trà. Tuy nhiên, nhiều tài liệu lại chứng minh rằng trà có nguồn gốc từ Ấn Độ. Sau đó, trà lan sang các nước khác như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, Anh... Năm 1657, lần đầu tiên trà được bán tại các quán cà phê ở nước Anh và nó mau chóng trở thành loại thức uống thông dụng ở đảo quốc này.
Ở nước ta, sách “Vân Đài Loại Ngữ” của Lê Quý Đôn (1726 - 1784) ghi ở mục IX về Phẩm vật: “Trà là một loại cây quý ở Phương Nam, cây như Qua lô, lá như chi tử (dành-dành), hoa như tường vi trắng (loại hoa hồng nhỏ), quả như Tinh Biền Lư, nhị như đinh hương, vị rất hàn”.
Ở Huế, hiện có loại trà gọi là Trà Cung đình. Người xưa kể rằng để pha trà cho vua, vào buổi chiều tối các thị nữ trong cung sẽ chèo thuyền ra hồ Tịnh Tâm và cho trà vào giữa những búp sen. Sáng sớm hôm sau sẽ lại chèo thuyền ra hồ sen để lấy trà ướp hương sen để pha trà dâng lên vua. Bên cạnh đó, dân gian còn lưu truyền câu chuyện hứng sương trên lá sen để lấy nước pha trà cho vua. Với thành phần gồm nhiều loại thảo dược như Cúc hoa, Cỏ ngọt, Hoài sơn, Đẳng sâm, Đại táo, Hồng táo, Hồi hoa, Cam thảo Bắc, Hoa lài, Hoa hòe, Thảo quyết minh, Khổ qua, Kỷ tử, Vối nụ, Tim sen; Trà Cung đình có tác dụng bổ khí huyết, thanh nhiệt, giảm độc, mát gan rất tốt. Để thưởng thức loại thức uống đế vương này du khách có thể tìm đến quán cà phê Vĩ Dạ Xưa, quán cà phê Nam Giao Hoài Cổ hoặc quán cà phê Lầu Tứ Phương Vô Sự bên trong Hoàng Thành Huế... Du khách còn có thể mua những gói trà Cung đình về để sử dụng hằng ngày, có thể uống với nước đá hoặc để tủ lạnh uống dần trong những ngày hè nắng nóng.
Uống trà theo kiểu cung đình Huế thì phải có một bộ đồ trà đúng kiểu. Không phải chỉ có một bộ đồ trà dùng cho suốt cả 4 mùa mà kiểu cách uống trà của Huế còn thể hiện ở chỗ có bốn loại chén trà dành cho bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Và, nghệ nhân nghề thêu Lê Văn Kinh (đường Phan Đăng Lưu, thành phố Huế) hiện đang sở hữu trên 50 bộ ấm trà khác nhau. Trong đó quý nhất là ba bộ Thế Đức, Lưu Bội, Mạnh Thần. Theo ông Lê Văn Kinh, cách thưởng trà của người Huế xưa cũng khác hẳn so với cách thưởng trà của Trung Quốc, Ấn Độ hay Nhật Bản... Nếu người Trung Quốc khi uống một tay cầm tách, một tay che miệng; người Nhật dùng hai tay nâng xoa tách trà thì người Việt Nam nói chung và người Huế nói riêng lại khác. Khi uống, tách trà thường được nâng bằng tay phải, ngón trỏ và ngón cái bên cạnh miệng tách, ngón giữa đỡ dưới trôn, hai ngón khác co lại. Lúc uống trà, cổ tay xoay vào để mu bàn tay và tách trà che miệng thể hiện sự lịch sự, tôn trọng người đối diện.
Đặc biệt, uống trà ở Nhật Bản được tôn lên là Trà đạo. Trà đạo gắn liền với Thiền, có Trà thất (phóng uống trà), Trà viên (sân vườn) và đầy đủ nguyên liệu, dụng cụ phục vụ việc uống trà. Người chế biến trà và uống trà cũng trở thành “Trà tượng”. Học giả Nhật Bản Kakuzo Okakura (1862-1913) đã viết cả sách “Trà thư” để giới thiệu Trà đạo của xứ Phù Tang đến thế giới. Các geisha (nghệ sĩ vừa có tài ca múa nhạc lại vừa có khả năng trò chuyện) từ lúc nhỏ cũng được huấn luyện bài bản về Trà đạo để có thể chiều lòng khách. “Nhân loại đã gặp nhau trong một chén trà. Mặc dù, Kakuzo Okakura từng khẳng định trong cuốn sách của mình, rằng Đông là Đông, Tây là Tây, không bao giờ gặp nhau” - Thạc sĩ Phan Nguyễn Phước Tiên (Khoa Ngữ văn, Đại học Khoa học - Đại học Huế) nhận định.
Tuy nhiên, Việt Nam không có Trà đạo như Nhật Bản. Có thể mời nhau bằng trà, nước lọc, cà phê… đều được. “Hiện nay, người Việt Nam nói chung và cả người Huế nói riêng không câu nệ về điều này. Cái quan trọng nhất vẫn là tình cảm” - Thạc sĩ Phan Nguyễn Phước Tiên nhận định thêm.
NGUYỄN VĂN TOÀN