Kỳ 1: Một số nhận thức cơ bản về nguồn lực tôn giáo
Đảng ta khẳng định vai trò của tôn giáo; coi giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo là nguồn lực quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự thừa nhận, tôn trọng và chủ trương phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôn giáo phát huy triết lý, giáo lý tốt đẹp trong đời sống xã hội và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Tuy nhiên, với mưu đồ chính trị, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để xuyên tạc tình hình tôn giáo, quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về tôn giáo để phá vỡ sức mạnh của khối đại đoàn kết này. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã luôn nhấn mạnh vị trí, vai trò của công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch (trong đó có vấn đề tôn giáo), coi đó là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.
Tỉnh Đoàn Lâm Đồng đến thăm và chúc mừng Tòa Giám mục giáo phận Đà Lạt nhân dịp Lễ Giáng sinh năm 2021. Ảnh: V.Q |
Thời kì đổi mới, Đảng và Nhà nước ta từng bước nhận thức rõ giá trị, vai trò tôn giáo trong đời sống xã hội nên có những chủ trương, chính sách khai thác, phát huy tiềm năng của tôn giáo phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Lần đầu tiên tại Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, khẳng định: “Tôn giáo là một vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của bộ phận Nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”.
Với việc ghi nhận “đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”, lần đầu tiên, trong văn kiện của Đảng khẳng định sự cảm thông, chia sẻ với những người có đức tin, không đối lập về mặt ý thức hệ để thừa nhận lý tưởng, đạo đức của tôn giáo có nhiều điểm tương đồng với lý tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đạo đức con người mới xã hội chủ nghĩa có những điểm khác biệt với đạo đức tôn giáo, nhưng lại có nhiều điểm tương đồng như lòng thương người, bao dung, nhân văn, đức hy sinh, vị tha, tính thiện... Sự đổi mới đó chứng tỏ bản lĩnh và sự trưởng thành của Đảng trong công tác lý luận nói chung và công tác tôn giáo nói riêng.
Và Đảng ta đã đưa ra một hệ thống các quan điểm về nguồn lực tôn giáo sau đổi mới:
Thứ nhất, có thể thấy rằng, Đảng ta đã nhận thức rõ tự bản thân các tôn giáo đều chứa đựng những giá trị nhân văn và hướng thiện, hướng con người đến lối sống vị tha, bình đẳng, bác ái.
Tôn giáo khuyên bảo tín đồ cấm sát sinh là tránh đi việc chết chóc, bạo lực, xung đột, chiến tranh; không trộm cắp, không nói dối là giáo dục tín đồ ngay thẳng trong làm ăn, phát triển kinh tế, không gian tham đến tài sản người khác để hạn chế nguồn gốc của mâu thuẫn xã hội... Khi tín đồ tránh được những điều xấu và tu tập những điều tốt thì không chỉ có được con người tốt, mà cả cộng đồng tốt và xã hội đều tốt. Điều đó góp phần tạo nên sự bền vững trong phát triển hệ giá trị đạo đức, văn hóa dân tộc. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII nêu rõ: “Phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng. Phê phán và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín dị đoan”.
Tư tưởng của các tôn giáo khuyên con người luôn nhớ đến “đạo hiếu”, lấy chữ hiếu làm đầu trong giáo dục tín đồ, phù hợp với truyền thống dân tộc Việt Nam trong xây dựng văn hóa gia đình, tế bào của xã hội. Đạo hiếu chính là những giá trị tích cực, thiết thực góp phần khích lệ mọi người quan tâm lẫn nhau, phát huy giá trị nhân bản và lan tỏa yêu thương. Các tôn giáo đề cao giá trị gia đình, cùng với sự bao bọc của niềm tin tôn giáo làm cho các thành viên trong gia đình quan tâm, hỗ trợ, chăm sóc nhau tốt hơn trong cuộc sống, góp phần chống lại sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội. Giá trị đó của các tôn giáo đã đóng góp vào việc bồi dưỡng giá trị đạo đức văn hóa truyền thống gia đình Việt Nam. Những chuẩn mực của tôn giáo góp phần không nhỏ trong việc duy trì nguyên tắc ứng xử của xã hội Việt Nam, rất hữu ích trong việc duy trì đạo đức, văn hóa xã hội.
Việc thực hành nghi lễ tôn giáo đã góp phần tạo lập và đoàn kết cộng đồng tín đồ. Các nghi lễ, thực hành niềm tin tôn giáo là phương cách mang mọi người đến gần với nhau hơn, ở đó giá trị văn hóa, đạo đức tôn giáo, dân tộc được giao lưu, trao truyền thường xuyên hơn. Bởi, tôn giáo nào cũng đều khuyên răn con người hướng thiện, hướng đến cái tốt đẹp, hướng đến đạo lý làm người, có trách nhiệm với bản thân và gia đình, biết sống vì cộng đồng. Việc thực hành nghi lễ tôn giáo góp phần tạo lập sự đoàn kết và đồng thuận xã hội. Niềm tin tôn giáo tích cực đã tác động đến hành vi, đạo đức ứng xử của mỗi tín đồ và cộng đồng tôn giáo. Sự gắn kết chặt chẽ những người cùng đức tin luôn có sức sống bền vững và lan tỏa ra cộng đồng, tạo nên những mối tương quan trong quan hệ xã hội, góp phần đồng thuận, tiến bộ xã hội.
Các tôn giáo đã thể hiện giá trị đạo đức, văn hóa trong triết lý, giáo lý của mình trong thực tiễn bằng việc thực hiện tốt các phong trào do các bộ, ngành và các địa phương phát động, như “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở khu dân cư, “Xây dựng chùa cảnh tinh tấn, gương mẫu”, “Xây dựng xứ, họ tiên tiến, gia đình Công giáo gương mẫu”, hay các phong trào phòng, chống tội phạm, ma túy, tệ nạn xã hội, xây dựng nếp sống mới trong việc hiếu, hỉ và lễ hội, xây dựng và thực hiện các quy ước, hương ước của thôn, xóm, khu dân cư...
Thứ hai, Đảng ta cho rằng chức sắc, chức việc các tôn giáo ở Việt Nam rất đông đảo, là đội ngũ trí thức, có ảnh hưởng và hiểu biết sâu rộng trên các lĩnh vực liên quan đến đời sống xã hội, như giáo dục, văn hóa, y tế và ngoại ngữ... Đây là lực lượng có đóng góp đáng kể trong việc phát triển văn hóa - xã hội.
Thực tiễn đã chứng minh rằng, những phong trào nông thôn mới, phát triển văn hóa cơ sở, đặc biệt là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Trong sinh hoạt tôn giáo, chức sắc luôn khuyên bảo tín đồ chấp hành các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng đoàn kết dân tộc, đoàn kết các tôn giáo, trách nhiệm trong hoạt động kinh tế - xã hội. Ở đó, niềm tin đạo đức, giới răn, chuẩn mực của tôn giáo ảnh hưởng tích cực đến chủ thể làm kinh tế, đến mục tiêu, phương thức thực hiện. Phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế không xa rời đạo đức xã hội, trách nhiệm xã hội chính là đóng góp của tôn giáo trong hình thành văn hóa, xã hội, phát triển đất nước. “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”.
Thứ ba, tôn giáo luôn quan tâm đến hòa bình, hòa hợp, lên án những bất công, những điều xấu nên giá trị đạo đức, văn hóa tôn giáo luôn góp phần giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Cộng đồng tôn giáo là những tổ chức có tính tự quản cao, có ý thức trách nhiệm trong việc giữ gìn an ninh, trật tự, bảo vệ môi trường góp phần bài trừ một số tập tục lạc hậu, hạn chế thanh, thiếu niên vi phạm pháp luật. Tại nước ta hiện nay, những ngày lễ lớn của các tôn giáo, nhất là lễ Phật đản, Vu Lan, Noel... không chỉ là của những người theo các tôn giáo mà trở thành ngày vui chung, ngày hội lớn của người dân. Có lẽ vì vậy mà trong những năm qua, số tín đồ của các tôn giáo ngày một tăng lên không ngừng, nhiều tôn giáo, hệ phái tôn giáo mới đã được Nhà nước Việt Nam tạo mọi điều kiện cấp phép hoạt động. Các tổ chức tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, đúng tôn chỉ, mục đích luôn được Nhà nước và cấp chính quyền quan tâm, tôn trọng và tạo điều kiện hoạt động.
Quyền con người, quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam được bảo đảm ngày một tốt hơn; các tôn giáo đã phát triển nhanh cả về số lượng tín đồ và cơ sở thờ tự. Nếu như năm 2006, cả nước mới có 6 tôn giáo và 16 tổ chức tôn giáo được công nhận và đăng ký hoạt động, thì đến nay đã có 38 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau được công nhận (số liệu đến tháng 6/2020). Cả nước có khoảng trên 25 triệu tín đồ, trên 110 nghìn chức sắc, nhà tu hành (số liệu đến hết năm 2019). Các cơ sở thờ tự của các tôn giáo ngày càng được xây dựng khang trang cùng nhiều cơ sở xã hội, từ thiện đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện công tác xã hội. Các cơ sở đào tạo chức sắc tôn giáo với đủ các cấp học, như: Học viện Phật giáo, chủng viện Thiên chúa giáo và các trường cao đẳng, trung cấp của các tôn giáo đã và đang hoạt động với sự giúp đỡ của các cấp chính quyền địa phương. Các ấn phẩm về tôn giáo được Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi trong in ấn và phát hành.
Mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 8.500 lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng được tổ chức. Trong hàng giáo phẩm của các tôn giáo hiện nay, rất nhiều vị được Nhà nước tạo điều kiện để đi đào tạo, bồi dưỡng ở các nước trên thế giới. Nhiều lễ hội tôn giáo lớn ở Việt Nam đã được tổ chức như Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc vào các năm 2008, 2014; lễ Bế mạc Năm Thánh 2011 của Giáo hội Công giáo Việt Nam được tổ chức long trọng tại giáo xứ La Vang, tỉnh Quảng Trị; Đại lễ kỷ niệm 72 năm khai sáng đạo Phật giáo Hòa hảo; Đại lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam và đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh; Hội nghị Thượng đỉnh Phật giáo thế giới vào năm 2010... Kể từ năm 2011, Vatican đã cử đại diện không thường trú tại Việt Nam và đặc phái viên không thường trú này đã thực hiện nhiều chuyến thăm tới hầu hết các tỉnh, thành ở Việt Nam. Thời gian vừa qua, Việt Nam thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo ngày 18/11/2016. Luật đã tác động tích cực đến đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam tạo hành lang pháp lý vững chắc để bảo đảm thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân...
* * *
Đảng ta đã kế thừa và phát triển tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo và lấy đó làm điểm chung để đoàn kết đồng bào theo tôn giáo khi khẳng định: Tôn giáo, tín ngưỡng là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng Nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Đây cũng chính là quan điểm đổi mới nhận thức và công tác tôn giáo trong suốt quá trình đổi mới đất nước, được thể hiện ở các nghị quyết, văn kiện và các văn bản của Đảng, điển hình như Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16/7/1998 của Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết nêu rõ: “Khuyến khích ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện... trong tôn giáo, đồng thời tuyên truyền giáo dục khắc phục mê tín dị đoan; chống việc lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng thực hiện ý đồ chính trị xấu”. Nghị quyết số 25/NQ-TW, ngày 12/3/2003, của Hội nghị Trung ương 7 khóa IX “Về công tác tôn giáo” tiếp tục khẳng định sự cần thiết phải “Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và Nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan”. Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Phát huy các giá trị văn hóa, nhân tố tích cực trong văn hóa, tín ngưỡng”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định giá trị văn hóa tôn giáo khi yêu cầu “Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”.
(CÒN TIẾP)
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin