Ngày 31/1/2007, bố mẹ của bà Nguyễn Thị Vân cùng với vợ chồng ông T có thỏa thuận lập giấy viết tay chuyển nhượng quyền sử dụng một phần thửa đất tại huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định; loại đất vườn có diện tích 480 m
2 (dài: 40 m, rộng: 12 m), với số tiền 68.000.000 đồng.
Tại thời điểm viết giấy tay đồng ý chuyển nhượng quyền sử dụng, ông T đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo đó, bố mẹ bà Vân đã giao trước cho vợ chồng ông T số tiền 55.000.000 đồng, có xác nhận trong giấy viết tay chuyển nhượng.
Vợ chồng ông T cam kết sẽ tiến hành lập hợp đồng chuyển nhượng chính thức giao cho bố mẹ bà Vân. Nhưng từ đó đến nay, bố mẹ bà nhiều lần liên lạc kể cả gặp vợ chồng ông T để yêu cầu giao hợp đồng chính thức, nhưng vợ chồng ông T cứ nêu nhiều lý do để lùi thời gian mà không thực hiện. Toàn bộ diện tích đất chuyển nhượng đó bố mẹ bà đã quản lý và sử dụng từ ngày lập giấy viết tay chuyển nhượng.
Bà Vân hỏi, diện tích đất trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ gia đình ông T, trong đó ông T là người đại diện đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông T có quyền xác lập giao dịch dân sự đối với phần diện tích riêng (quyền sử dụng đất theo phần) của ông T được cấp nếu không có giấy thỏa thuận thống nhất chuyển nhượng phần diện tích riêng của ông T hay không? Giao dịch này đã có hiệu lực tại thời điểm xác lập chưa?
Bộ Tài nguyên và Môi trường trả lời vấn đề này như sau:
Theo quy định tại Khoản 29, Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 thì hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 64 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai thì hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của hộ gia đình phải được người có tên trên Giấy chứng nhận hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự ký tên.
Theo quy định tại Khoản 5, Điều 14 Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT ngày 27/1/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP và Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ thì người có tên trên Giấy chứng nhận hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự quy định tại Khoản 1, Điều 64 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP chỉ được thực hiện việc ký hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất khi đã được các thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất đồng ý bằng văn bản và văn bản đó đã được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật.
Theo đó, để thực hiện quyền của người sử dụng đất đối với đất cấp cho hộ gia đình thì người có tên trên Giấy chứng nhận (ông T) chỉ được thực hiện việc ký hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất khi đã được các thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất đồng ý bằng văn bản và văn bản đó đã được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật.
Bộ Tài nguyên và Môi trường thông tin đến bà Vân về quy định trong việc chuyển nhượng, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình.
Về hiệu lực của giao dịch dân sự (giấy viết tay) đề nghị bà liên hệ với Bộ Tư pháp để được giải đáp.
(Theo Chinhphu.vn)
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin