Sự cô đọng trong thơ Thanh Quế

NGUYỄN TƯỜNG VĂN 05:42, 15/06/2023

Nhà báo - nhà thơ Thanh Quế, sinh năm 1945, quê Phú Yên, là phóng viên chiến trường giai đoạn 1969-1975 khu vực Trung Trung Bộ, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Hơn nửa thế kỷ cầm bút, Thanh Quế có trên 50 đầu sách riêng đã xuất bản. Nơi phòng đợi là một trong những tập thơ xuất sắc của ông.

Bìa tập thơ Nơi phòng đợi

Trong văn hóa phương Đông, các nhà thơ chân chính bước qua tuổi “thất thập” hay chuẩn bị cho mình một tâm thế an nhiên tự tại về lẽ vô thường trong cuộc nhân sinh sau khi đã kinh qua những sấp ngửa, được thua, mất còn, khổ đau và hạnh phúc. Nhà thơ Thanh Quế cũng không ngoại lệ. Tập thơ Nơi phòng đợi của ông do Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân cho ra mắt công chúng như sự đúc kết kinh nghiệm cuộc sống của thi sĩ sau nhiều nếm trải. 

45 bài thơ trong tập Nơi phòng đợi như 45 lát cắt của đời người từ khi sinh ra (bài Bé Cỏ lật) đến lúc hoá thân về cõi vĩnh hằng (bài Nơi phòng đợi). Tập thơ ngỡ như một tuyển “danh ngôn con người đương đại”, lĩnh vực nào ta cũng bắt gặp bài học giá trị soi rọi từ cuộc sống. Nghĩ về thế thái nhân tình, ông nhìn qua thấu kính để có những bài: Kẻ sống nhờ, Người câm, Cuộc đua hoặc như ngay trong bài Cuộc đời mở đầu tập thơ, Thanh Quế viết: “Cuộc đời/ Ôm hôn đứa con béo phì/ Hắt hủi/ Bầy con gầy trơ xương”. Mặc dù đã xuất bản 16 tập thơ và trường ca, song ông không ầm ĩ mà thường lặng lẽ hướng vào nội tâm, tự vấn với chính mình đến tận cùng, như trong các bài: Tôi với tôi xung khắc, Nếu mà... “Nếu bạn cho tôi một tí thôi/ Cái mà tôi ấp ủ trông chờ/ Tôi sẽ suốt đời đi với bạn/ Nhưng bạn chỉ đưa bàn tay hờ hững/ Chỉ cho tôi những rương nhỏ hòm to/ Còn cái tôi trông chờ không có/ Và như thế, tôi với bạn mỗi người một ngả/ Tôi đi tìm cái ao ước của tôi/ Như kẻ khát đi tìm nước uống”. Thơ ông còn là tiếng nói của lương tri đầy tính nhân văn: Kẻ thấp bé, Ông già, Không đề hoặc bài Phẩm chất của nhà thơ chỉ mấy câu nhưng rất sắc: “Phẩm chất của nhà thơ/ Được định giá/ Bởi việc dám lao hay không dám lao/ Vào lưỡi kiếm của ngôn từ”. Thậm chí, có bài thơ còn ngắn hơn cả đầu đề của nó, như bài Bản tính của nhà thơ, ông gói gọn 4 từ: “Là/ Hay lo lắng”. Nói như nhà thơ Trúc Thông - Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam - bạn cùng thời với ông: “Càng ngày Thanh Quế càng cô chắt, sự kìm nén càng bình tĩnh, tự nhiên... Thanh Quế chiến đấu cho thơ mình bằng thứ ngôn ngữ ít cách điệu hay nói thật chính xác là anh đã cách điệu bằng thứ ngôn ngữ sát sạt đời sống, sâu xa ẩn kín trong vỏ thô ráp...”. Ngay cả những bài viết về quê hương, đất nước trong tập, dẫu cảm xúc có dạt dào nhưng ngôn từ vẫn được chắt lọc, ta thấy qua các bài: Đêm Đà Nẵng nhìn chớp giật biển xa, Gặp lại Hải Phòng, Tuy An hoặc mô tả nơi chôn nhau cắt rốn trong bài Về làng xưa nhớ ba, nhà thơ chỉ điểm xuyết: “Ngay đầu làng Phú Thạnh/ Con đường cát trắng dẫn về nhà xưa/ Bàu Ngòi nước xanh, dập dềnh bông súng đỏ/ Tiếng bê kêu khản giọng ngoài đồng…”. Vâng, “Tiếng bê kêu khản giọng ngoài đồng” hay chính tiếng gọi trầm thống nén chặt của nhà thơ đối với quê hương.

Qua tập Nơi phòng đợi người đọc còn ngộ ra về số phận của thơ ca và hành trình của thi sĩ ở các bài: Con đường văn học, Bản tính của nhà thơ, Phẩm chất của nhà thơ, Nhà thơ già hoặc trong bài đầy chất “tục ngữ châm ngôn đương đại” mà thi sĩ Thanh Quế đã nhận chân: “Đau/ Thật đau/ Khi anh không viết được thơ/ Hiện đại hay hậu hiện đại/ Đau/ Thật đau khi bị chê thơ/ Rất cũ/ Đau/ Thật đau/ Đau thắt trong lòng/ Đau đến tận cùng/ Khi bài thơ chỉ là một mớ xác chữ”. Tuổi càng cao, người ta thường sống với những hoài niệm quá khứ, hay nghĩ về gia đình, người thân. Đây là mảng đề tài nhà thơ Thanh Quế có những cảm xúc thắt lòng. Đối với cha mẹ, ông có: Về làng xưa nhớ ba, Bên bậu cửa; tình vợ chồng, ông có Anh và em cùng già; nhà thơ tìm thấy năng lượng cuộc sống khi nghĩ về cháu con: Bé Cỏ lật, Gọi ông qua điện thoại, Nói với con trai đang học xa hoặc ở bài thơ Gởi con gái, nhà thơ như sự phản tỉnh ăn năn: “... Nhiều lần ba mắng con/ Có lúc giận đánh con/ Nhưng con là đứa con gái ba yêu quý nhất/ Ba mẹ tính nết khác nhau/ Ý thích khác nhau/ Nên hay xảy ra cãi vã/ Nếu có con sẽ dàn hòa rất dễ/ Nhưng con lại ở xa...”, để rồi tận đáy lòng ông kết thúc bài thơ rất "chủ nghĩa nhân văn": “... Rồi một ngày ba ra đi mãi mãi/ Chắc ở thế giới bên kia/ Ba cũng nhớ con quặn thắt/ Cũng phù hộ cho con/ Con là đứa con gái ba yêu quý nhất trên đời”. 

Nhà báo - Nhà thơ Ngô Thế Oanh - PhóTổng Biên tập Tạp chí Thơ của Hội Nhà văn Việt Nam từng nhận xét: “Cùng với thời gian, thơ Thanh Quế càng về sau càng đạt đến sự cô đọng thấm lòng của một sự chiêm nghiệm sâu sắc. Những bài thơ anh viết về những đời thường quanh anh, về gia đình anh, về tuổi thơ anh... Tất cả mang cái đẹp của sự lắng lại và chiều rộng không chỉ giới hạn trong câu chữ”. Tập này, Thanh Quế có hàng loạt thơ sáng tác về khoảng tuổi xế chiều bằng những cảm xúc tích cực của người cao tuổi. Đây có lẽ là chủ đề chính ở Nơi phòng đợi. Trong đó có các bài rất ấn tượng, như: Tập làm quen, Người về hưu, Đêm, Những người đang sống, May mắn, Xuống tàu, Cuộc đua, Nơi phòng đợi... hay trong bài Gửi bạn văn, nó như một thông điệp của văn nghệ sĩ chân chính để lại cho mai sau. Trong đó có đoạn: “... Mất đi một thằng bạn tử tế/ Bạn không cần đến viếng tôi/ Với hoa với hương phong bì phúng điếu/ Bạn chỉ cần nói: Quế ơi/ Mày đi/ Ở lại chúng tao cố gắng/ Viết thật tốt…” thể hiện một triết lý sống của người cầm bút như câu thơ cuối đời của nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Sống là cho mà chết cũng là cho!”.

Yêu một người là muốn người ấy hoàn toàn thuộc về mình, còn yêu một tác phẩm văn học ta muốn đem tác phẩm ấy chia cho mọi người. Tập thơ Nơi phòng đợi - một trong số tác phẩm tôi muốn đem chia khắp công chúng hiện nay.