Bản lĩnh chính trị là sự kiên định, khả năng độc lập suy nghĩ, quyết định và hành động, là đòi hỏi cơ bản và trực tiếp đối với mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, với cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng,...
Bản lĩnh chính trị là sự kiên định, khả năng độc lập suy nghĩ, quyết định và hành động, là đòi hỏi cơ bản và trực tiếp đối với mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, với cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng, giúp mỗi người kiên định lập trường, tư tưởng và bằng ý chí, năng lực của mình vượt qua khó khăn, thử thách, áp lực để quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của mình, của địa phương, cơ quan, đơn vị.
BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ LÀ PHẦN CỐT LÕI, CƠ BẢN NHẤT
Bản lĩnh chính trị là sự tổng hợp biện chứng của lập trường chính trị, phẩm chất chính trị và năng lực chính trị; là điều kiện cần thiết để đảm bảo cho mỗi cán bộ, đảng viên có định hướng chính trị đúng đắn, luôn làm chủ bản thân, làm chủ hoàn cảnh thực tiễn và kiểm soát được hành vi, thái độ của mình trong mọi tình huống. Đó chính là sự vững vàng, kiên định, chủ động trong cả suy nghĩ và hành động trước những khó khăn, thách thức của cuộc sống, đúng như V.I.Lênin từng nhấn mạnh: “Chỉ giai cấp nào đi theo con đường của mình mà không do dự, không chán nản và không sa vào tuyệt vọng trong những bước ngoặt khó khăn nhất, gay go nhất và nguy hiểm nhất, thì mới có thể lãnh đạo được những quần chúng lao động và bị bóc lột. Chúng ta không cần những sự hăm hở điên cuồng. Điều cần thiết cho chúng ta, chính là bước đi nhịp nhàng của những đoàn quân vững như gang thép của giai cấp vô sản”[1].
Bản lĩnh chính trị là phần cốt lõi, cơ bản nhất, là phẩm chất quan trọng cần phải có hàng đầu của mỗi cán bộ, đảng viên; là sự cụ thể hóa bản lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, mang bản chất giai cấp công nhân, vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người; là sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trung thành với lợi ích của Tổ quốc và nhân dân; là tinh thần, ý chí, quyết tâm phấn đấu, vượt mọi gian khổ và không dao động trước thử thách, áp lực để hoàn thành nhiệm vụ. Đó còn là tinh thần chủ động trong đấu tranh vạch trần, phản bác những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động, góp phần làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động của chúng, phòng và chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ…
Theo Hồ Chí Minh, bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên là sự thể hiện tính giai cấp, “tính Đảng” trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm; là luôn “nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”[2]; là “phải quyết tâm suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Đó là phẩm chất cao quý của người cách mạng, đó là đạo đức cách mạng, đó là tính Đảng, tính giai cấp, nó đảm bảo cho sự thắng lợi của Đảng, của giai cấp, của nhân dân”[3]. |
Do đó, rèn luyện bản lĩnh chính trị để mỗi cán bộ, đảng viên thấm nhuần sâu sắc mục tiêu, lý tưởng cách mạng, “kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới”[4]; đồng thời, nỗ lực, sáng tạo và phát huy sức mạnh tiềm năng hoàn thành nhiệm vụ được giao phó là yêu cầu vừa thường xuyên, vừa bức thiết trong công tác xây dựng Đảng. Qua đó, không chỉ nhằm “xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, gần dân, sát dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng”[5], “nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả”[6] mà còn góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, thiết thực xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên là một trong những yếu tố quan trọng hình thành bản lĩnh chính trị của Đảng. Bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng thể hiện ở những quyết định đúng đắn, kịp thời, phù hợp yêu cầu của thực tiễn, nhất là ở trong những thời khắc có ý nghĩa bước ngoặt. Nhờ có bản lĩnh chính trị vững vàng, trong 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xuyên suốt và nhất quán trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Đảng luôn coi trọng việc rèn luyện để nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên - nhân tố quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng, trong mọi hoàn cảnh, thời điểm.
Rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên là toàn bộ hoạt động của các cấp uỷ, tổ chức đảng và của chính cán bộ, đảng viên trên tinh thần quán triệt sâu sắc và theo đúng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; xây dựng và xác định rõ các tiêu chí đánh giá bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên; được tiến hành đồng bộ: từ việc nâng cao nhận thức tư tưởng, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị đến nâng cao năng lực công tác, phương pháp làm việc, tác phong công tác; với sự tham gia, phối hợp của nhiều lực lượng và đi liền cùng đó là tạo điều kiện và môi trường thử thách để rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn liền với việc đề cao vai trò tự giác tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị của mỗi người.
Rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên có vai trò quan trọng trong bối cảnh đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng; khi mà một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những cán bộ, đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, với những biểu hiện về sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, chạy theo danh lợi, tiền tài, địa vị, tham ô, tham nhũng, mư cầu lợi ích nhóm… Thực tế công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng những năm qua, đặc biệt là khi triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” gắn với Chỉ thị 03-CT/TW về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, với những quy định về những điều đảng viên không được làm… đã cho thấy việc rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên đã được triển khai thực hiện nghiêm túc ở Trung ương và địa phương.
Thông qua việc học tập, quán triệt, bồi dưỡng và tu dưỡng về mọi mặt, năng lực nhận thức, trình độ hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng của Đảng, sự kiên định mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội của đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên. Mỗi người trong mọi mặt công tác đã được bồi dưỡng và tự bồi dưỡng để có tư duy khoa học độc lập, năng lực tự định hướng và phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao phó; đã nâng cao năng lực tự rèn luyện, tu dưỡng trong thực tiễn về phẩm chất đạo đức, nhân cách, phương pháp công tác, kỹ năng làm việc và lãnh đạo gắn liền với việc tôi luyện ý chí, tinh thần kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, phản động, nhất là khả năng “tự đề kháng”, “tự miễn dịch” với những cám dỗ vật chất, những tiêu cực từ cơ chế kinh tế thị trường, với những thủ đoạn, âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch… Cùng với việc đổi mới và nâng cao chất lượng công tác tư tưởng của Đảng, việc rèn luyện bản lĩnh chính trị thường xuyên, liên tục gắn với tu dưỡng đạo đức cách mạng, thực hiện tự phê bình và phê bình nghiêm túc của mỗi người, với công tác kiểm tra và giám sát nghiêm túc của mỗi cấp ủy sẽ khiến “phú quý không dụ dỗ được ta, nghèo khổ không lay động được ta, oai lực không dọa nạt được ta. Mà khó khăn gì chúng ta cũng vượt qua được, việc gì chúng ta cũng làm được”[7].
RÈN LUYỆN BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ ĐỂ PHÒNG VÀ CHỐNG SỰ SUY THOÁI
Bản lĩnh chính trị vững vàng là một phẩm chất quyết định sự sống còn và thành công của mỗi cán bộ, đảng viên và của Đảng, song đó là kết quả của một quá trình giáo dục, bồi dưỡng, học tập và rèn luyện thường xuyên, kiên trì, bền bỉ trong thực tiễn. Thực tế cho thấy, về cơ bản, đội ngũ cán bộ, đảng viên có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực chuyên môn để làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Đặc biệt, nhiều cán bộ, đảng viên với bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn “kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện”[8] đã năng động, sáng tạo, đi đầu trong mọi lĩnh vực, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm với những công việc khó, mới trong xu thế toàn cầu hóa. Đó có thể là những điều chưa có trong sách vở nhưng đang xảy ra trong thực tiễn và khi đã nghĩ “là đúng” thì phải dấn thân để làm, quyết tâm làm để đưa cái đúng vào cuộc sống; đồng thời, lấy kết quả cuối cùng để chứng minh và bảo vệ mình, tổ chức mình.
Tuy nhiên, trước những tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, những khó khăn, phức tạp nảy sinh trong quá trình hội nhập, đặc biệt là với các thủ đoạn tinh vi và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động, đã có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng; lập trường tư tưởng không vững vàng nên hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài về lý tưởng cách mạng của người cộng sản, giảm sút ý chí, niềm tin về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; mang nặng chủ nghĩa cá nhân vị kỷ: độc đoán, chuyên quyền, lạm dụng quyền lực, chạy bằng cấp, chạy quy hoạch, chạy chức, chạy quyền và nhất là bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất nên đã vi phạm pháp luật, đã bị khai trừ khỏi đảng và vướng vòng lao lý, v.v..
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã chỉ rõ về sự suy thoái nêu trên; trong đó nhấn mạnh: “Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao”...
Cùng với đó, một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì thế mà hoài nghi, thiếu tin tưởng và nhất là không thiết tha với việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bộ phận cán bộ, đảng viên này đã không chủ động, tự giác, tích cực kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động mà đôi khi và thậm chí còn cổ súy, phụ họa “té nước theo mưa” cho một số quan điểm sai trái, lệch lạc,v.v.. Nguy hiểm hơn là trong thực tế, đã có “không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””[9].
V.I.Lênin đã từng chỉ rõ, các thế lực thù địch không thể đánh đổ được những người cộng sản, trừ chính những sai lầm của chính mình và “không một ai trên thế giới này có thể làm mất được uy tín của những người Mácxít cách mạng nếu họ không tự làm mất uy tín của họ”[10]. Điều đó có nghĩa là, việc rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên không chỉ có vai trò quan trọng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức mà còn có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng và của công tác cán bộ, công tác đảng viên nói chung.
Vì thế, để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, cần thấm nhuần và thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, mỗi cấp ủy không chỉ phải nâng cao hơn nữa nhận thức về tầm quan trọng của việc phải thường xuyên, liên tục rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên mà còn phải coi đó là yêu cầu vừa bức thiết vừa thường xuyên của công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Gắn việc rèn luyện để nâng cao bản lĩnh chính trị với việc phát huy tính tiền phong, gương mẫu, thống nhất giữa nói và làm của cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt và người đứng đầu nói riêng. Thông qua việc chú trọng “xây dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị”[11], từng bước đẩy lùi, ngăn chặn các nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng, góp phần nâng cao uy tín lãnh đạo của Đảng, năng lực và sức chiến đấu của Đảng nói chung, đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng.
Hai là, mỗi cấp ủy cần xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể, sát thực tiễn để quán triệt, thực hiện tốt hơn nữa các nghị quyết, quy định của Đảng về học tập lý luận chính trị; trong đó, tập trung thực hiện Quy định số 54-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng; Quy định số 164-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý,v.v.. Theo đó, hệ thống các trường chính trị từ Trung ương đến địa phương cần tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị; trong đó, chú trọng xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng thiết thực, hiệu quả, phù hợp từng đối tượng, phù hợp điều kiện đặc thù của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ba là, việc đánh giá bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt nói riêng phải căn cứ vào đặc thù từng lĩnh vực, từng địa phương, cơ quan, đơn vị mà họ công tác. Do đó, cùng với việc đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp tiếp tục gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và các Quy định về nêu gương là việc các cấp ủy từ Trung ương đến địa phương phải xây dựng các tiêu chí để đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên phù hợp bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng. Khi xem xét, đánh giá phải dựa vào tiêu chí, nội dung đăng ký thực hiện và kết quả công tác của mỗi người; thống nhất giữa đánh giá bản lĩnh chính trị với kết quả thực thi nhiệm vụ, gắn đánh giá đạo đức công vụ với đánh giá kết quả thực thi công vụ, đảm bảo hiệu quả thực sự trong đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên hằng năm, khắc phục triệt để cách đánh giá cán bộ, đảng viên một cách chung chung, hình thức, dĩ hòa vi quý... Thông qua đó, tạo động lực để cán bộ, đảng viên phấn đấu vươn lên, rèn luyện bản lĩnh chính trị, kiên định, kiên trì và năng động, sáng tạo hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Bốn là, phát huy tính tích cực, tự giác trong rèn luyện bản lĩnh chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên, trong đó cán bộ cấp càng cao càng phải gương mẫu rèn luyện bản lĩnh chính trị, nghiêm khắc với bản thân mình. Đồng thời, cấp ủy các cấp chú trọng xây dựng cơ chế để mỗi người đều phải nỗ lực rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Học lúc ra thực hành mới vững chắc, hăng hái, lúc gặp khó khăn mới kiên quyết, hy sinh để tu dưỡng đạo đức cách mạng: Có đạo đức cách mạng thì mới hy sinh tận tụy với cách mạng, mới lãnh đạo được quần chúng đưa cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn. Học để tin tưởng: Tin tưởng vào Đoàn thể. Tin tưởng vào nhân dân. Tin tưởng vào tương lai của dân tộc. Tin tưởng vào tương lai của cách mạng”[12]. Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện, môi trường, các phong trào thi đua, các cuộc vận động để cán bộ, đảng viên trải nghiệm, tự giác rèn luyện để nâng cao bản lĩnh chính trị. Qua đó, không chỉ giúp họ tự mình tu dưỡng, phấn đấu, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực công tác đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ cách mạng mà còn góp phần nâng cao chất lượng công tác cán bộ, nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ.
Năm là, cùng với việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, đội ngũ cán bộ của Đảng là việc thực hiện tốt quy trình, quy hoạch đội ngũ cán bộ và tạo môi trường cho cán bộ, đảng viên, đội ngũ lãnh đạo, quản lý chủ chốt được thử thách, rèn luyện bản lĩnh chính trị. Thực tế cho thấy, bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên có điều kiện bộc lộ rõ khi được trải nghiệm trong môi trường thực tiễn nhiều thử thách, có độ phức tạp và nhạy cảm về chính trị, cho nên, cần thực hiện tốt việc luân chuyển cán bộ, đảng viên trong diện quy hoạch, nguồn quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, để đào tạo, bổ sung kiến thức lý luận và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn cho họ, nhất là trước các kỳ đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội của Đảng. Trong đó, chú trọng thực hiện “cơ chế phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội và triển vọng phát triển vào vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả vượt cấp, nhất là cán bộ trẻ” và “xây dựng kế hoạch cụ thể để luân chuyển, điều động giữ vị trí cấp trưởng, phù hợp với chức danh quy hoạch ở địa bàn khó khăn, lĩnh vực trọng yếu, nơi triển khai mô hình mới để thử thách, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, nhân sinh quan cách mạng, năng lực lãnh đạo toàn diện của cán bộ” theo đúng tinh thần Nghị quyết 26-NQ/TW khóa XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” gắn liền với công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Đặc biệt, chú ý những địa bàn, lĩnh vực trọng yếu, nhiều khó khăn, thử thách, nhạy cảm và phức tạp để thông qua đó, rèn luyện những cán bộ trẻ có triển vọng phát triển, được quy hoạch và dự kiến bổ nhiệm giữ trọng trách cao, để kịp thời sàng lọc, loại bỏ những cán bộ “đẹp hồ sơ” nhưng lập trường chính trị, phẩm chất chính trị và năng lực chính trị không tương xứng.
[1] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.43, tr.349
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.9, tr.354
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.611
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.199
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.205
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.199
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.538
[8] Ban Chấp hành Trung ương: Nghị quyết 26-NQ/TW về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII
[9] Ban Chấp hành Trung ương: Nghị quyết 26-NQ/TW về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII
[10] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.44, tr.132
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.203
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.6, tr.360-361
(Theo tuyengiao.vn)